Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

12 Tháng Giêng 202018:23(Xem: 4633)
Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ 

 Thích Nữ Huệ Trân

Làm Thế Nào

Vạn Hạnh dung tam tế
Chơn phù cổ sấm
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ”      

Đây bài kệ đầy cảm kích, vua Nhân Tông đã làm để truy tán Thiền- Vạn Hạnh, nhà đã mang đạo vào đời, góp phần cực kỳ quan trọng dựng nên triều , một triều đại dân giầu nước mạnh suốt hơn hai trăm năm trong chiều dài lịch sử vàng son của dân tộc Việt Nam. Thầy Huyền Không đã dịch bài kệ ngắn, ghi dấu ấn công đức lượng này như sau:

Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy chống giữ nghiệp vua

Một nhà chân trần, áo vải, ôm bình bát du hóa đó đây góp công trị nước an dân, không phải chỉ hơn hai trăm năm triều ảnh hưởng còn sâu đậm đến ngày nay, thoạt nghe như huyền sử thần thoại, sự thật còn bi tráng gấp bội thần thoại.

Đạo pháp luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; khi đất nước thái bình, đạo vun bồi, nuôi dưỡng đời sống tâm linh trăm họ; khi đất nước suy vong, đạo chia xẻ đau thương qua hình ảnh những Bồ Tát hóa thân lịch sử đã chứng minh, không thời nào không nếu chúng ta khai mở trí tuệ để nhìn bằng tuệ nhãn.

Thời tiền Vạn Hạnh như thế nào Sử Việt những trang  đại hùng, đại lực, đại từ bi cho cả một triều đại huy hoàng hơn hai trăm năm như thế?

Địa danh Cổ Pháp, được ghi nhận nơi chào đời, đặc biệt để trở thành linh địa?

Bối cảnh thời vua Đại Hành rối ren thế nào phải xuống núi?  

Thiền- Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp, thuộc phủ Thiên Đức, sinh ra trong một gia đình mộ đạo Phật. Từ thuở ấu thơ Ngài đã tỏ lộ sự thông minh xuất chúng, làu thông kinh sử, liễu ngộ Lão Giáo, Nho Giáo nhưng thay vi bị ép trong giáo điều, Ngài đã uyển chuyển kết tụ những tinh hoa của Lão, của Nho, hòa hợp với tinh thần từ bi, giác ngộ, của Đạo Phật, tự khai mở cho mình con đường hành trì ưu việt, vừa chấn hưng Đạo Pháp, vừa cứu nước độ dân

Với sự khai mở tuyệt luân đó, Ngài đã chính thức xuất gia năm vừa 21 tuổi. Sự kiện xuất gia tuổi thành niên, thay từ thơ ấu, phải chờ dấu mốc của sự chín chắn, hay, với bản chất trí tuệ vượt bực hơn người, Ngài  chọn quyết định xuất gia như một sứ mạng nhìn thấy trước phải đi bằng đường Đạo mới cứu được đường đời?

Theo tài liệu lịch sử thì tình trạng đất nước Việt Nam thật suy đồi khi vua Đại Hành đã già yếu vẫn chưa lập Thái tử nối ngôi, trong khi nhà vua rất nhiều con trai ai cũng rấp ranh thừa kế ngai vàng. Mầm tranh chấp, hỗn loạn đã thấy , chưa kể sự áp bức, đô hộ thường xuyên của Bắc phương.

Những vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, khi can trường đứng lên chống ngoại xâm thường phải đến cửa chùa, tìm minh để vấn kế, trong thời buổi nhiễu nhương đó, nhiều nhân tài đã phải ẩn thân chốn am thiền để chờ thời cứu dân giúp nước. Ngay như vua Đại Hành cũng được sự trợ giúp của Pháp Thuận, một vị thuộc thiền phái Ti Ni Đa Lưu Chi, đời thứ mười.

Sau khi xuất gia, Vạn Hạnh hoằng hóa đó đây, tra cứu, tìm tòi kinh điển để dịch thuật, phổ biến rộng rãi thêm trong dân gian. Nhưng đó chưa phải mục đích duy nhất của một người uyên bác, không chỉ phụng sự Đạo Pháp còn hành trì Bồ-tát-hạnh trước tai ương thống khổ của đất nước, của dân tộc.

Một buổi chiều, khi Vạn Hạnh dừng chân trước chùa Cổ Pháp, lòng bỗng dưng nao nức lạ kỳ, không phải cây hoa gạo đang trổ bông đỏ rực góc sân chùa, không phải ngọn tháp rêu phong phủ đầy thông khô, cũng không phải tàng-kinh-các im sững ẩn dụ muôn lời-không-lời, không gian phảng phất hào khí của bình Nam dẹp Bắc, của thanh gươm-trí-tuệ Văn Thù.

Vạn Hạnh bước vội qua cổng tam quan thì được Khánh Vân đích thân ra đón. Hai vị đảnh lễ nhau rồi cùng bước vào trai đường. Vạn Hạnh nôn nóng hỏi ngay:

       - Lâu nay chùa ta lạ không?

       - Thưa huynh, đệ vẫn ngày đêm lo kinh kệ, chăm bón dăm luống cải, ít gốc hoa thôi.

       Vạn Hạnh nhìn quanh quất, hỏi tiếp:

       - Sao vắng vẻ quá! Tiểu Công Sơn đâu rồi?

       - Thưa huynh, tiểu Công Sơn đi xách nước còn tiểu Công Uẩn thì đi nhặt củi chưa về.

       Vạn Hạnh nhướng mày, hỏi:

       - Tiểu Công Uẩn? đệ thêm một tiểu nữa ư? Hồi nào thế?

       Khánh Vân vừa rót trà vừa trả lời:

       - Đã lâu huynh không ghé qua nên đệ chưa dịp nói. Tiểu Công Uẩn đứa bị thân nhân đem bỏ trước cổng chùa, đệ nhờ làng xóm tìm tông tích cha mẹ của , năm này tháng khác vẫn bặt âm tín nên đành nuôi trong chùa, lấy họ của đệ họ đặt Công Uẩn. Cũng may, đứa này rất thông minh đĩnh ngộ, kinh kệ học đâu nhớ đó văn chương ứng đáp phần vượt xa tiểu Công Sơn.

       Vừa lúc đó, một chú tiểu ôm củi bước vào sân chùa. Khánh Vân gọi:

       - Công Uẩn, vào chào đi con.

       Công Uẩn đặt củi ngoài sân, vào trai đường, vòng tay thưa:

       - Tiểu Công Uẩn xin cung kính đảnh lễ Phụ.

Vạn Hạnh nhìn chú tiểu nhỏ. Cảm giác nao nức lạ kỳ khi vừa dừng trước cổng chùa lại dấy lên, mạnh mẽ, hoan lạc, cảm kích biên. Cảm giác này đang xoáy mạnh vào lời trăn trối của Thiền Ông, rằng Cổ Pháp linh địa, nơi đây sẽ người anh hùng họ xuất hiện cứu đạo, cứu đời.

Thiền Ông nổi tiếng uyên thâm về phong thủy, địa , đã hết lòng truyền dạy cho đệ tử mình Vạn Hạnh nên bấy lâu nay, Vạn Hạnh đã âm thầm ôm mối u uẩn, lang thang đó đây, tìm tòi chứng nghiệm lời căn dặn của phụ mình tin rằng đã được ân cần truyền lại từ đời Định Không, thuộc dòng thứ ba của thiền phái Ni Đa Lưu Chi.

Tiểu Công Uẩn đã khuất sau cửa trai đường Vạn Hạnh vẫn ngồi lặng, tách nước đã cạn lòng bừng bừng cháy khát.

Cảm nhận được điều nghiêm trọng, Khánh Vân đứng lên, đóng cửa phòng, sẵn sàng nghe lời chỉ giáo của huynh.

Tới giờ tụng Sám Hối, cửa vẫn đóng. Tiểu Công Sơn bồn chồn lo lắng nhưng không dám . Tiểu Công Uẩn thì bình tĩnh lên chánh điện, thắp nhang lạy Phật rồi an nhiên thiền tọa.

       Sáng sớm hôm sau, Tiểu Công Uẩn vâng lệnh phụ, theo Vạn Hạnh về chùa Lục Tổ để được tu tập, rèn luyện thêm về giáo pháp cũng như văn học.

       Khánh Vân gạt lệ nhìn theo người đệ tử hết lòng thương yêu nhưng không thể ích kỷ giữ mãi bên mình biết rằng Công Uẩn theo Vạn Hạnh sẽ phát triển được trọn vẹn tài trí tiềm ẩn trong tâm hồn tràn ngập từ bi khí phách.

Tuy Khánh Vân rất đơn giản, chất phác, nhưng cũng nhận ra khí khái kỳ diệu nơi Công Uẩn. tâm sự với Vạn Hạnh rằng, một lần, tiểu Công Uẩn phạm lỗi, tuy lỗi nhỏ thôi nhưng vẫn bị phạt quỳ hương dưới bệ thờ. Tình cờ, đi ngang qua, nghe Công Uẩn xuất khẩu thành thơ, chỉ hai câu làm giật mình kinh hãi.

Khi Khánh Vân nói lại hai câu thơ đó, chính Vạn Hạnh cũng sửng sốt:

 “Đêm khuya chân mỏi không dám duỗi
Chỉ sợ sơn tắc nghiêng

Thời gian qua như bóng câu, vị tu sỹ trẻ không phụ lòng thầy Bổn-, thầy Y-chỉ.

Công Uẩn luôn hiển lộ trí tuệ tuyệt luân tâm từ bi lượng nên được sự ngưỡng phục từ triều đình tới dân chúng khắp nơi. Chưa ba mươi tuổi, Công Uẩn được tiến cử giữ chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ huy sứ Vạn Hạnh vị cố vấn như bóng với hình.

Tháng ba năm Ất Tỵ, vua Đại Hành băng . Thái tử Long Việt được làm lễ đăng quang nhưng không lâu bị em thái tử Long Đĩnh sai bộ hạ ám sát.

Khi sự việc này xảy ra, hầu hết quan lại trong triều đều hoảng kinh, sợ liên lụy nên bỏ chạy hết. Duy chỉ Thân Vệ Công Uẩn lại lo tẩm liệm, chôn cất vị vua vắn số với đầy đủ nghi thức cho một vị quân vương. Hành động can đảm này đã khiến vua Long Đĩnh nể phục vị tu sỹ trẻ, sắc thái nhu hòa tiềm ẩn khí phách song.

Long Đĩnh ông vua tàn bạo, luân một không hai trong sử Việt. Trong triều thì nịnh thần lũng đoạn, bên ngoài thì dân chúng bị hiếp, đói khổ điêu linh, tiếng oán than thấu trời xanh nhà vua vẫn làm ngơ, đắm chìm trong hoan lạc tửu sắc.

Với cái nhìn bén nhạy của người viễn kiến, Vạn Hạnh biết đây chính lúc phải chuẩn bị tạo ra thiên thời, địa lợi, nhân hòa cứu nước cứu dân.

Trong sự sắp đặt đó, chuyện một cây cổ thụ làng Diên Hồng bị sét đánh trốc gốc. Hôm sau, dân làng ra thu dọn thì thấy sau lớp vỏ, thân cây khắc đậm hàng chữ:

Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành

Dân chúng thỉnh cao tăng tới giảng giải thì được biết rằng, chữ Hòa, chữ Đao chữ Mộc viết gộp lại thành chữ ; chữ Thập, chữ Bát chữ Tử viết gộp lại thành chữ . Câu sấm đó, giảng nôm na sụp, thành”, điềm báo trước nhà sẽ tận nhà sẽ chấn hưng đất nước.

Lời sấm được loan truyền mau chóng trong dân gian. Lòng người náo nức chờ sự đổi thay. Đó Nhân hòađã sẵn. “Thiên thời, địa lợi” do chính nghiệp của vị vua tàn ác tạo ra.

Bởi hoang dâm quá độ, vua Long Đĩnh chết sớm, thái tử mới bốn tuổi lên ngôi, mồi ngon cho Bắc phương! Đây chính thời Vạn Hạnh tải Đạo vào Đời, ân cần thuyết phục Công Uẩn noi gương Thang, , dùng trí tuệ uyển chuyển tình thế để cứu muôn dân.

Đồng thuận với Vạn Hạnh các quan đại thần trong triều , quan trọng hơn hết lòng dân khắp nơi thỉnh nguyện.

Cuộc chính biến diễn ra êm , không một sự phản kháng, chống đối nào.

Chú tiểu Công Uẩn, người con rơi, bị bỏ trước cửa Phật được hai vị cưu mang, nuôi nấng, rèn luyện, đã lên ngôi vua, lấy hiệu Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà suốt hơn hai trăm năm.

Trong suốt triều đại hoàng kim này, các vị vua nhà đều được truyền thừa tinh thần từ bi của Đạo Phật, lấy lẽ Đạo chăn dân, lấy lòng nhân đối xử với kẻ xâm lăng khi phải phá Tông, bình Chiêm để bảo vệ bờ cõi.

Bồ Tát thường xuất hiện nơi địa-ngục-trần-gian, nơi người hành hạ, hủy diệt người. Lần giở trang sử xưa, ai bàng hoàng tự hỏiĐâu Vạn Hạnh? Đâu Công Uẩn?”

Câu hỏi đó, khi đã khởi lên sẽ như những nhát búa nhức nhối đập mãi, đập mãi quanh ta thành những âm thanh dồn ép, bức phá, buộc chúng ta phải vận dụng tai trần mắt thịt để nghe, để nhìn, đâu Vạn Hạnh, đâu Công Uẩn thời nay?

 Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu, một vạn tiếng kêu gào!” (*)

Mùa thu thường được lấy làm bối cảnh cho những diễm lệ, êm đềm. Vậy mùa thu đây lại mùa tang tóc, mùa của vạn tiếng kêu gào!

Hồn thơ như tiếng kinh chiều, theo giòng sinh mệnh nổi trôi của lịch sử, âm thầm ôm ấp hoài bão tải Đạo cứu Đời. Đó phải con đường gian khổ Vạn Hạnh ngày xưa đã đi không?

 Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống lầu
Hạt cải tròn con mắt
Dấu chân người đâu?” (*)

Khổ nạn xoay nhanh như dòng đời, thoắt đây :

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại, bốn vách tường
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn (*)

Theo chân vị Thầy xuống núi tới đây, chúng ta đã thấy phần nào tinh thần tùy duyên hóa độ.

-Vạn-Hạnh hay Tiểu-Công-Uẩn cũng một tấm lòng dâng hiến tải đạo cứu đời; Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa cũng phương tiện dẫn đến Bồ-Tát-thừa, con đường KHAI TAM HIỂN NHẤT, tu bồi Bồ-Đề-tâm trong trái tim từng người con Phật.

Thế nên, Bồ Tát đã đi vào giữa điêu linh thống khổ của nhân gian với Tâm Từ rộng mở:

Tôi đi chấn chỉnh sơn
Hồng rơi vách đá, sa thị thành(*)

Nam Thanh Lương Địa Quán Thế Âm Bồ Tát.

TN Huệ Trân

(Trầm trước viễn ảnh họa Bắc phương)

                                              

(*) Thơ Thiền Tuệ Sỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2213)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2640)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2517)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2322)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2633)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2418)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3229)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2517)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2454)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2524)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2180)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2570)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3033)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2634)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2686)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2955)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2527)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2558)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4059)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2760)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3037)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2278)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2492)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2791)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2984)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2855)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2599)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2616)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3178)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2372)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2467)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2583)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2670)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2725)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3252)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2545)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2121)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2582)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2036)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2806)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2883)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2917)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2689)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2503)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2767)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant