Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

17 Tháng Hai 202009:22(Xem: 4151)
Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

 Tháng Lịch Sử Người Da Đen, Đọc “Dreaming Me”

Nguyên Giác

 

Cứ mỗi tháng 2 dương lịch, Hoa Kỳ lại đón mừng Tháng Lịch Sử Da Đen (Black History Month), nhằm vinh danh thành quả của người da đen Hoa Kỳ, một truyền thống lần đầu tổ chức vào năm 1926 bởi sử gia Carter G. Woodson và kéo dài tới bây giờ.

Đặc biệt trong năm 2020, Tháng Lịch Sử Da Đen mang thêm một ý nghĩa là kỷ niệm 150 năm Tu Chánh Án Thứ 15 (Fifteenth Amendment), nội dung cho người đàn ông da đen quyền đi bầu cử, cũng như kỷ niệm 100 năm Tu Chánh Án Thứ 19, nội dung cho phụ nữ quyền đi bầu cử.

Bên cạnh các hoạt động văn hóa, như phim ảnh, triển lãm, kịch nghệ, diễn hành… trong Tháng Lịch Sử Da Đen có một truyền thống lặng lẽ, nhưng đầy chiều sâu: đọc sách. Bạn có thể đề nghị giới trẻ trong cộng đồng Việt một tác phẩm nào để các em đọc, để ý thức rằng sự kỳ thị màu da là có thực và rất đau đớn, và Phật Giáo đã trở thành nơi nương tựa của rất nhiều người da đen Hoa Kỳ hiện nay.

Một tác phẩm hồi ký nổi bật của Giáo sư Jan Willis-- có nhan đề “Dreaming Me: Black, Baptist, and Buddhist ― One Woman's Spiritual Journey” (Mơ Tôi: Da Đen, Tín Đồ Baptist, và Là Phật Tử -- Hành trình Tâm linh của một Phụ Nữ) -- được nhiều độc giả quan tâm về Phật giáo giới thiệu cho nhau trong tháng này. Sách này in lần đầu năm 2001, và tái bản 2008.

Trong phần giới thiệu trên Amazon, ghi nhận rằng: “Jan Willis không phải tín đồ Baptist hay Phật giáo. Bà đơn giản là cả hai. ‘Dreaming Me’ là chuyện đời của tác giả, khi niên thiếu trưởng thành trong các vùng Jim Crow South (tiếng lóng chỉ: các tiểu bang phía nam có luật kỳ thị da đen để thượng tôn da trắng), đối phó với kỳ thị trong một đại học Ivy League (nhóm đại học nổi tiếng nhất Hoa Kỳ), và rời dính líu với Đảng Báo Đen (Black Panther Party – một đảng cách mạng da đen cực tả, lập năm 1966, giải tán năm 1982). Nhưng chỉ tới khi gặp Lama Yeshe, một nhà sư PG Tây Tạng cư ngụ trong vùng núi Nepal, bà mới nhận ra con người thực của bà, và từ đó bà biết cách sống tận lực cuộc đời của bà.”

Nữ Thiền sư Hoa Kỳ Sharon Salzberg, người có nhiều tác phẩm về Phật giáo, nhận định về sách Dreaming Me: “Sách của Jan Willis là một cẩm nang hướng dẫn đầy thông tin, tuyệt đẹplôi cuốn cho những ai muốn tìm sự chuyển hóa. Tác giả khéo léo đan kết chuyện đời riêng và lời Phật dạy, đưa tới hiện thực về hành trình bước đi tới giải thoát.”

Thupten Jinpa, người sáng lập viện nghiên cứu và dịch thuật về Phật giáo Tây Tạng Institute of Tibetan Classics, và là thông dịch riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhận định về hồi ký Dreaming Me: “Một cuốn sách chân thực gợi cảm hứng về thăng hoa cá nhân và là chiến thắng của lòng người. Sách tuyệt vời này chạm vào nhiều chủ đề mà tất cả những người hành hương chân thựcđặc biệt những ai muốn kết hợp di sản văn hóatôn giáo với hành trình tâm linh mới tìm ra – đều phải giải quyết ở một điểm nào đó trên hành trình của họ.”

Hai nhà phê bình Frederic và Mary Ann Brussat ghi nhận rằng Jan Willis là người Mỹ da đen đầu tiên trở thàng một học giả chuyên về Phật Giáo Tây Tạng và là một dịch gia về lĩnh vực này. Bà là giáo sư môn tôn giáo học tại đại học Wesleyan University và đã giảng dạy về Phật học trong hơn 25 năm. Với tập hồi ký kể lại hơn 50 năm trong đời bà, tác giả Willis tập trung vào cuộc đi tìm: “Để vượt qua cảm thọ về đau đớnđau khổ mà tôi gánh chịu, tôi biết tôi sẽ phải tìm chữa lành, để tìm thấy nơi tiềm ẩn rất căn bản cho tất cả chúng ta: cảm thấy là nhà trong chính làn da của mình. Và do vậy, từ những ngày sớm nhất của tôi, nỗ lực đơn độc đi tìm của tôi trở thành đi tìm một phương pháp để chấp nhận chính tôi và để yêu thương tôi.”

Tác giả Jan Willis sinh năm 1948 và trưởng thành ở thị trấn Docena, tiểu bang Alabama, nơi tổ chức thượng tôn da trắng Ku Klux Klan hoạt động tích cực. Khi còn là vị thành niên, bà chứng kiến những cây thánh giá với lửa còn đốt cháy (do KKK) cắm trước nhà của bà. Willis đã tham dự biểu tình, diễn hành của Tiến sĩ Martin Luther King, Jr. và cảm thấy bà đang trên đường của bà --- đứng dậy vì điều bà thấy là chính nghĩa quan trọng. Bà được nhận vào đại học Cornell University năm 1965 và là một trong 8 sinh viên da đen duy nhất.

Sau khi du học Ấn Độ, nơi bà cũng học tiếng Sanskrit, trong năm junior (năm thứ 3 của bậc Cử nhân Hoa Kỳ), Willis trở về đại học Cornell và tham dự liên đoàn sinh viên da đen Black Student Alliance trong cuộc tấn công vũ trang, chiếm tòa nhà sinh viên trong khuôn viên đại học. Nhưng thay vì gia nhập Đảng Báo Đen, Willis trở về Nepal  để học về PG Tây Tạng dưới hướng dẫn của đại sư Lama Yeshe. Đại sư đã hướng dẫn tác giả trong 15 năm về nan đề lớn nhất của bà: “chấp ngã quá sâu dày.” Willis học được cách dịu dàng đối với sự kiêu hãnh của bà. Phương pháp tu giữ tâm kham nhẫn, trong sáng của PG giúp bà tới chỗ tự chấp nhận chính mình. Bà bây giờ tự gọi là một Phật tử Baptist.

Willis hoàn tất Tiến sĩ về Phật học tại đại học Columbia University và đã học, thực tậpnghiên cứu tại các trung tâm  Phật Giáo Tây TạngẤn Độ, Nepal, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ trong hơn bốn thập niên. Bà là tác giả nhiều sách về PG, viết trên nhiều tạp chí về Thiền tập, vấn đề phụ nữ và PG, vấn đề PG và màu da.

Trước khi sách Dreaming Me ấn bản đầu ấn hành một năm, Tạp chí Time vào tháng 12/2000 đưa bà vào danh sách “Sáu nhà sáng tạo tâm linh cho thiên niên kỷ mới.” Jan Willis được nhiều giải thưởng và nhiều vinh danh từ cả giới học Phật và các nhà hoạt động phụ nữnhân quyền.

Jan Willis sinh ra và lớn lên ở thị trấn Docena, một thị trấn nhỏ với kinh tế chính là hầm mỏ. Willis phải học trường giành riêng cho học sinh da đen, lúc nào cũng xuất sắc, nhưng liên tục là nhân chứng và là nạn nhân bị da trắng kỳ thị. Những đau đớn kỳ thị này đi cả vào trong những giấc mơ của tác giả.

Jan Willis khởi sự tập hồi ký bằng lời kể về một giấc mơ, trong đó bà bị một bầy sư tử xông tới hăm dọa. Giấc mơ đã hình tượng hóa những gì mơ hồ trừu tượng từ thơ ấu – những nỗi sợ và gánh nặng tác gia gặp phải trong vị trí “một thiếu nữ từ miền Nam [Hoa Kỳ].” Trong giấc mơ, mẹ cùa Jan Willis cảnh giác con, “Con phải biết là đầy nguy hiểm ngoài kia!” Dù vậy, trong giấc mơ những nguy hiểm đó hiện hình thành bầy sư tử.

Jan Willis kể lại, “Tôi biết bầy sư tử rượt tôi… Tôi chạy và chạy, mệt thở hết nổi, hổn hển qua không khí nóng. Tôi không thấy ai cả, không ai tới để giúp.” Khi tỉnh giấc mơ là trong tâm chỉ còn lại những nỗi phẫn nộ và cực kỳ đau đớn.

Tác giả Jan Willis kể rằng đại sư Yeshe với lòng từ bi đã xem bà như con. Nhưng vẫn khác, vì nhiệm vụ một người thầy là phải dạy học trò.

Jan Willis viết: Lạt Ma Yeshe gọi tôi là đứa con gái ruột. Tôi nghĩ rằng Thầy cũng đã gọi nhiều phụ nữ độc thân khác là con gái tương tự. Nhưng tôi biết Thầy nghĩ về tôi, trong cách nào đó, là rất đặc biệt. Nhiệm vụ của Thầy là làm cho tôi cũng cảm nhận thấy sự đặc biệt đó, và để dạy tôi tin tưởng vào chính năng lực của tôi. Có một khoảng cách mênh mông giữa 'different' (khác biệt) và 'special' (đặc biệt). Mẹ tôi nhìn tôi như là một đứa khác biệt; Lama Yeshe nhìn tôi như là đặc biệt. Và đặc biệt có nghĩa là được yêu thương riêng cho chính tự thân, vì sâu tận nội tâm, nơi tận cùng là trong sạch, trí tuệ, từ bivi diệu. Lama Yeshe biết như thế về tôi, như Thầy biết như thế về tất cả các chúng sinh. Và đó là các vị Thầy chân thực ứng xử như thế: quý Thầy yeu thương chúng ta không ngằn mé bởi vì quý Thầy thực sự nhìn chúng ta là rất úy giá, từng ngườu trong mỗi chính riêng tự thân mình – không gì [nơi chúng ta] thấp hơn các vị Phật.”

Một tháng trước khi ấn bản đầu của sách Dreaming Me phát hành, Tập San Phật Học Mandala số tháng 3/2001 phỏng vấn tác giả Jan Willis. 

Có chuyện gì lạ khi một học giả viết hồi ký? Vâng, khác biệt lắm, và cũng đặc biệt lắm. Jan Willis lúc đó 52 tuổi (vào năm 2001) là giáo sư dạy Phật học ở Wesleyan University tại thành phố Middletown, tiểu bang Connecticut, lúc đó đã ấn hành 4 sách đều có chủ đề nghiên cứu về Phật Giáo

Tác giả Jan Willis trả lời phỏng vấn của Mandala rằng trong khi viết tập hồi ký Dreaming Me, nhà biên tập ở nhà xuất bản Riverhead nhắc nhở rằng đừng có viết kiểu như thờ phượng đại sư Lama Yeshe quá mức. Bà Willis biết rằng tất cả những sách viết cho độc giả Tây Phương có thể vướng nỗi nguy hiểm khi viết về các đạo sư phi thường. Bà nói thực sự bà không viết kiểu “thờ phượng đạo sư” mà chỉ kể những chuyện theo học từ khi là một cô sinh viên hai mươi tuổi, lúc đó trong lòng còn đầy những giận dữ, đau đớn và tủi hổ. Tác giả Willis nói phần tập trung là ca ngợi phương pháp Thầy Yeshe dạy bà cách hồi phục tự tin. Thầy đã nói đi nói lại với cô học trò Willis về cách nhận ra và thăng hoa sự kiện rằng “tôi là một phụ nữ mạnh mẽ và thông minh, người có kho tàng nội tâm để đóng góp cho thế giới.” Và cần tới 15 năm học với Lama Yeshe để hoàn toàn nhận ra tự tâm trong sáng, hoàn toàn không vướng mắc chút màu da hay chủng tộc, hay bất kỳ ranh giới nào.

Jan Willis kể rằng câu chuyệnchuyển hóa tâm linh là phổ quát cho nhiều người, rằng bà không phải là đứa trẻ da đen duy nhất sinh ra và lớn lên trong một thị trấn có luật kỳ thị da đen gay gắt ở Miền Nam Hoa Kỳ, và bất kể những giải thưởng trong thời đi học, khi bà gặp Lama Yeshe, bà vẫn mang đầy những gánh nặng đau đớn, và chính Thầy Yeshe đã giúp bà hàn gắn vết thương, bằng cách chấp nhận sự kiện rằng “đôi khi ngay cả tâm Phật cũng phải phẫn nộ.”

Vâng… xin mời bạn đọc kỹ câu cuối trong đoạn trên. Sẽ không có một Phật Tử Châu Á nào dám viết như thế. Chỉ Phật Tử Mỹ, và chỉ một số thôi, không nhiều, mới viết kiểu như thế, rằng thời thơ ấu của một thiếu nữ da đen bị kỳ thị gay gắt tới nỗi “tâm Phật cũng phải phẫn nộ.”

Tác phẩm hiển nhiên là, hy vọng sẽ giúp được nhiều độc giả tìm được lối đi trong lời dạy của Đức Phật.

  

PHOTO:

zzz__H 1_book_Dream Me_2008_2001H1: Từ phải: bìa sách in lần đầu 2001, tái bản 2008.

zzz__H 2_Jan Willis_Mandala MagazineH2: Từ bé gái tín đồ Baptist, tới nữ sinh viên theo học Lama Yeshe. (Photo courtesy Mandala Magazine)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1830)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1909)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1778)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2150)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2127)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2261)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1754)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2079)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1784)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1767)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1932)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1939)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1592)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1769)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2115)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1859)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2459)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1766)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1765)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1730)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2173)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1992)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2139)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1667)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2284)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1621)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1912)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1811)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1866)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1703)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2451)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2167)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2105)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1913)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2292)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1875)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1954)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2199)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1717)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1979)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1995)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2201)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1972)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1806)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1786)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1804)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1915)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2212)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1749)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1715)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant