Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Trì Danh Niệm Phật

08 Tháng Tám 202009:07(Xem: 3652)
Cư Sĩ Trì Danh Niệm Phật

Cư Sĩ Trì Danh Niệm Phật

 

Cách đây mấy ngày, khi lên “Hoavouu.com) trên internet để sưu tầm tư liệu. Tôi có đọc được một bài chia sẻ của cư sĩ Lưu Tâm Lực. Bài viết của ông có tên là: “Tự Vấn Về Pháp Môn Tịnh Độ”, bài được đăng ngày 07/06/2016

(https://hoavouu.com/p25a41475/tu-van-ve-phap-mon-tinh-do)

Bài viết được trình bày theo hình thức vấn đáp, ta có thể nhận thấy rằng người viết đã có một quá trình nghiên cứu Phật học nghiêm túc. Ông chia sẻ chỗ sở học của mình cũng nhằm dụng ý giúp đỡ cho nhiều người trên bước đường nghiên cứu Phật pháp, cũng như trao đổi kinh nghiệm trên phương diện thực hành pháp môn niệm Phật. Rất cám ơn cư sĩ Lưu Tâm Lực qua bài chia sẻ nhiệt tình của ông. Chính ông đã giúp tôi có động lực để viết phần bỗ trợ về thực hành Pháp Môn Niệm Phật. Mong rằng nó  sẽ góp một phần nhỏ thêm vào bài viết của ông, ngõ hầu giúp đỡ phần nào cho những ai mới tìm hiểu và mong muốn thực hành Pháp Trì Danh Niệm Phật, có thể bắt đầu bước từng bước vững chắc trên con đường tìm về quê hương Cực Lạc.

Trong bài “Tự Vấn Về Pháp Môn Tịnh Độ”, ông Lực có viết rằng:

 

“Theo tôi thì lời dạy sau đây có vẽ mâu thuẩn " khi ta niệm Phật thì đừng cho mọi chuyện tạp nhạp xen vào. Khi ta làm những chuyện tạp nhạp thì làm sao cũng gắng có niệm Phật xen vào. Hãy thử nghĩ khi ta đang lái xe đến sở làm hay đến một nới chốn nào đó mà trong khi di chuyển ta cứ nghĩ đến danh hiệu Phật trong chuyên nhất thì sẽ chểnh mãn trong an toàn không những cho riêng ta mà ảnh hưỡng đến những xe cộ di chuyển khác”. 

 

Đây là một vấn đề rất thực tế và rất hệ trọng. Người tâm huyết muốn niệm Phật chuyên tâm thì phải tìm hiểu cặn kẽ mới có thể thực hành rốt ráo và làm tròn lời Phật dạy. Nhưng thường thì chúng ta quá nôn nóng muốn đi thẳng đến giai đoạn cuối nên dễ bị gặp chướng ngại, công phu Phật dạy lẽ ra rất giản dị và dễ thực hành; nhưng thường thì chúng ta bị chính chúng ta tự làm khó. (ví dụ như chúng ta là người Việt Nam, thì lúc còn nhỏ chúng ta cũng phải học tiếng Việt. Lúc bắt đầu ta phải học dần từng mẫu tự của bảng chữ cái tiếng Việt; sau đó học đánh vần, đọc các từ đơn, sau đó mới đến từ kép, rồi tập đọc câu, … Rồi sau mới học ngữ pháp (văn phạm), tự loại, cấu trúc câu. … Qua nhiều năm tháng rèn luyện trong nhà trường, qua nhiều cấp lớp thì chúng ta mới có thể nắm vững và sử dụng tiếng Việt một cách thông thạo, rành mạch. Chứ nếu như một người chưa rành tiếng Việt, lại cầm một quyển kinh Phật (Việt ngữ) mà đọc thì e rằng rất khó thực hiện!)

Một số người cho rằng pháp môn niệm Phật quá bình thường nên khi nghe Phật nói rằng đây là pháp môn “tối thượng thừa” thù thắng có thể giúp hành giả đến bờ bên kia, lên ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác; thì họ cho rằng đây là điều khó tin, khó chấp nhận. Mà đã không đặt trọn lòng tin thì khó mà nỗ lực thực hành kiên trì, miên mật, thì làm sao có thể thâm nhập dần vào những lẽ đạo sâu mầu, vinh diệu mà  chư Phật muốn truyền trao? Nên cho rằng: “Khó, khó, khó!”. Nào dè lỗi không phải do Phật; mà tội là do chính chúng ta. Chúng ta không chịu lắng nghe và vâng theo lời Phật dạy. Phật không chê chúng ta thuộc giới nghèo hèn-thấp kém; Phật không chê chúng ta thuộc hàng tiểu trí-căn cơ hạ liệt. Phật từ bi bày đại phương tiện để cứu độ tất cả chúng sanh. Phật từ bi, thương yêu tất cả chúng sanh, Phật dạy phương pháp thoát khổ, giải thoát ngay hiện đời này, mà chúng ta lại nghi ngờ. Đây quả là chướng ngại rất lớn. 

Hai là, có người cho rằng pháp môn này khó thực hiện bởi vì chúng ta là những con người căn cơ hạ liệt, xấu xa, tội lỗi, nghiệp chướng sâu dày; nên khó mà niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Làm sao chỉ với câu trì danh niệm Phật đơn giản, chỉ với “Lục Tự Di Đà” mà có thể an trụ tâm, hàng phục tâm? Làm sao thể nhập “Tự tánh Di Đầ” khi luôn sống trong tình trạng “Tâm Viên, Ý Mã”?

Xin vô cùng cám ơn cư sĩ Lưu Tâm Lực đã nêu lên vấn đề hệ trọngvô cùng cấp bách, vô cùng cần thiết cho những môn đồ mới của Phật. Người tu theo Tịnh độ tông cần hiểu thấu đáo và trang bị 3 món tư lương để làm hành trang trên đường tìm về xứ Phật. Đó là: TÍN - NGUYỆN - HẠNH. (Đây là 3 việc chính yếu, nền tảng của pháp môn Tịnh Độ; mà chắc là quí vị đã có tham khảo, tìm hiểu trên nhiều Kinh, sách Tịnh Độ, cho nên người viết xin phép không bàn luận về vấn đề này).

Người viết chỉ xin đi vào thực hành (theo như cách nghĩ thô thiểnphương pháp thực hành mộc mạc mà bản thân người viết đã học được từ nhiều vị hành giả Tịnh độ đã áp dụng và gặt hái được những kết quả đúng như lời Phật dạy). Bây giờ, xin phép bắt đầu đi vào thực hành pháp “Trì Danh Niệm Phật”.

Trì Danh Niệm Phật có nghĩa là chúng ta xưng niệm 6 chữ “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” (Lục Tự Di Đà). Rõ ràng là nghe qua rất dễ, rất đơn giản! Thực hành được ngay lập tức, không có gì gọi là khó khăn cả. Nhưng càng dễ thì càng phải nghiên cứu tận tường; thực hành nghiêm túc, kiên trì. Chúng ta cần xác định, làm rõ vấn đề mấu chốt này trước khi bắt tay vào thực hành đúng phương pháp, hiểu biết thấu đáo, rạch ròi, không mù mờ, mê tín. Cần chỉnh chu thân tâm trang nghiêm thành khẩn; không nên thực hành một cách chiếu lệ, qua loa, lấy có, hời hợt khi trì niệm hồng danh A Di Đà Phật.

Trước tiên, xin nêu một câu hỏi là: ‘Quí vị có tin tưởng tuyệt đốiPháp Môn Tịnh Độ sẽ giúp quí vị ngộ nhập được Tự Tánh Di Đà, Chơn Tâm Tịnh Độ ngay đời này; và khi bỏ thân này chắc chắn sẽ được Đức Từ Phụ A Di ĐàThánh chúng rước về quê hương Cực Lạc?”. Nếu vị nào xác quyết được rằng đó là niềm tin chắc chắn, quí vị khẳng định được rằng lời Phật dạychân lý, là lẽ thật; và nếu y cứ lời Phật dạy mà nghiêm túc, kiên trì thực hành miên mật thì chính NHÂN này sẽ giúp hành giả gặt hái được QUẢ (vô cùng quý báu) đúng y như lời Phật dạy.

Còn vị nào cảm thấy rằng chữ “TÍN” đối với mình chưa thật rõ nghĩa thì mình có quyền tìm tòi, nghiên cứu thêm nhiều Kinh, Luận, sách nào định nghĩa rõ chữ “TÍN” thì mình tiếp tục học hỏi qua lời giảng dạy của Phật, Tổ, Thánh Tăng, các Đấng Tông Sư, … Qua những truyện niệm Phật được cảm ứng, được nhất tâm, được vãng sanh, … Tiếp tục đi tham vấn những vị tôn túc trong tông Tịnh Độ. Tiếp tục tìm thầy giỏi, bạn lành, tiếp tục đi tìm và tham vấn với những bậc chơn tu để học hỏi chân lý, cứu cánh giải thoát, vãng sanh Cực Lạc. Và chắc chắn một điều rằng nếu với tâm chí thành, chí thiết thì ắt hẳn một ngày nào đó quí vị sẽ nhận được câu trả lời. Câu trả lời ấy sẽ quý hơn mọi của cảithế gian này. Bởi vì đó là đáp án của vấn đề quan trọng nhất của đời người, vấn đề: “SANH TỬ SỰ ĐẠI”.

Và sau khi chúng ta đã xác quyết được chữ “TÍN”, nghĩa là niềm tin của chúng ta đã mạnh mẽ, sắt son, không mơ hồ, không lay động, không dời đổi. Chúng ta hãy lạy tạ ơn chư Phật, Tổ, Tông sư, … và hãy phát NGUYỆN kiên trì thực hành pháp môn Trì Danh Niệm Phật dũng mãnh, miên mật (HẠNH) cho đến khi nhận được Tự Tánh Di Đà của chính mình. Và bây giờ chúng ta sẽ trao đổi phương pháp thực hành niệm “Lục Tự Di Đà” như thế nào để có hiệu quả, khỏi phụ ơn chư Phật?

Chúng ta sẽ bắt đầu từ khởi điểm của một ngày mới khi ta vừa ngủ thức dậy nhé? Khi vừa có cảm giác thức giấc, chuyện trước tiên là ta khởi niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, và tiếp theo đó ta sẽ niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, và “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” , đến khi ta có cảm giác tỉnh ngủ hẳn, khi mở mắt ra ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”. Khi chổi ngồi dậy, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; khi vén mí mùng (màn) ra, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; khi bỏ chân ra ngoài giường, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; bỏ chân xuống giường, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; đặt chân trên dép, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; xỏ chân vào dép, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; đứng thẳng người lên, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; bắt đầu quay người về hướng nhà vệ sinh, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; bước đi chầm chậm về hướng nhà vệ sinh ta vẫn liên tục niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” (trong lúc niệm Phật, mắt nhìn về hướng đang đi tới, thân người ngay ngắn đoan chính, hít thở đều hòa tự nhiên, trong lòng tươi vui - an lạc. Câu Phật hiệu giữ ý tập trung, mắt quan sát tỏ tường, thân ngay thẳng, bước chân vững chải). Khi đến nơi la-va-bô, mắt nhìn thấy ảnh mình trong gương liền niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, ta có thể nhìn ảnh mình trong gương, mỉm cười, trong lòng an vui-hạnh phúc, thầm khấn tạ ơn dạy dỗ của chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ sư, … và niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”. Ta cầm tuýp kem đánh răng, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; một tay vặn nắp tuýp kem để mở, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; tay còn lại cầm lấy bàn chải, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; trét kem lên bàn chải, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; cầm nắp vặn kín tuýp kem lại, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; hớp một ngụm nước vào miệng, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; nhả nước vào la-va-bô, niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; bắt đầu đánh răng, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; chải răng theo chiều ngang, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”,  “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” (trong lúc chải răng theo chiều ngang, ta chú ý từng động tác tay kéo ngang, bàn chải di chuyển trong miệng, chà trên răng theo chiều ngang, mạnh nhẹ cảm biết rõ ràng - từng câu Phật hiệu vang thật rõ từng chữ trong đầu ta liên tục, liên tục không gián đoạn); rồi đến chải răng theo chiều dọc, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”,  “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”,  “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” (trong lúc chải răng theo chiều dọc, ta cũng chú ý từng động tác tay kéo lên xuống, bàn chải di chuyển trong miệng, chà trên răng theo chiều dọc, mạnh nhẹ cảm biết rõ ràng - từng câu Phật hiệu vang thật rõ từng chữ trong đầu ta liên tục, liên tục không gián đoạn); khi nhả bọt kem trong miệng ra, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; hớp vào miệng một ngụm nước, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; nhả nước xuống bồn, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; hớp thêm một ngụm nữa, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; lại hớp thêm một ngụm nữa, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; hớp nước làm sạch kem trong miệng hoàn toàn, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, rồi mở vòi nước rửa sạch bàn chải; ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; đặt bàn chải trở lại chỗ cũ, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”; lấy khăn lau mặt, ta niệm: “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”.

Trên đây là minh họa chỉ từ lúc thức giấc cho đến khi đánh răng, xúc miệng. Mỗi mỗi động tác cử động tay chân lên xuống; đi đứng tới lui, quay qua quay lại; … ta đều tập trung làm trong sự thấy biết rõ ràng; Dầu làm bất cứ động tác, cử chỉ thế nào luôn luôn niệm câu Phật hiệu, không lúc nào ngưng, không để gián cách. Như vậy câu Phật hiệu luôn luôn hiển hiện trong tâm trí một cách rõ ràng, rành mạch. Khi niệm, chúng ta niệm từng tiếng rõ ràng, không niệm nhanh làm cho âm thanh líu quíu, nghe đớt đát, tiếng nọ dính tiếng kia. Và các công việc tiếp theo trong buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối ta đều thực hiện trong ý thức, nhận biết rõ ràng rành mạch. Trong lúc đang làm mọi việc lớn nhỏ, ngay cả khi ăn uống, tắm rửa, … câu Phật hiệu “Lục Tự Di Đà” luôn luôn làm chủ tâm trí chúng ta. Vì thế lâu ngày các phiền não, vọng tưởng yếu dần và không thể nào thống trị đất tâm của chúng ta được nữa. Cho nên, đừng lo sợ rằng nếu chúng ta mải lo tập trung niệm Phật, rồi thì các động tác khác sẽ không thực hiện chuẩn xác; thì đôi khi gây ra nguy hiểm, hoặc có tác dụng không tốt như lái xe trên đường chẳng hạn, hay diễn viên đu bay trên cao, …

Thật ra, nếu chúng ta kiên trì niệm Phật hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, … miên miên mật mật không gián cách thì trong tâm chúng ta hoàn toàn an định, không khởi niệm lăng xăng chạy theo vọng tưởng cho nên tâm trí chúng ta luôn luôn bình an, sáng suốt. Tâm trí chúng ta quán sát, và hướng dẫn từng động tác đang diễn ra của chúng ta, và do đó chúng sẽ được thực hiện một cách chính xác hơn, tinh tế hơn, chuẩn mực hơn. Như vậy, trong bất cứ hoạt động hằng ngày, ví dụ như khi đang lái xe, thì mắt ta quan sát phía trước thật rõ, thật xa, biết lượng xe cộ nhiều hay ít?, đang chạy nhanh hay chậm?; khúc đường phía trước rộng hay hẹp?, có mấy làn xe?; ta đang chạy trên đoạn đường thẳng hay sắp sửa đến một khúc quanh?, sắp đến một đoạn chui qua hầm?; phía trước có giao lộ không? Phía trước có cầu vượt chăng? Phía trước có đèn hoặc biển báo giao thông nào không? Ta có thể quan sát hai bên xe. Ta có thể nhìn kiếng chiếu hậu để quan sát phía sau xe. Ta có thể nghe rất rõ ràng tiếng còi xe cứu hỏa, xe cứu thương, hoặc của xe cảnh sát; và ta có thể nhận biết một cách rõ ràng là các xe đó xuất hiện từ hướng nào?, … Khi câu Phật hiệu vang lên trong tâm trí ta, thì ngay chính giờ khắc đó tâm trí chúng ta an định, sáng suốt; chúng ta không bị tâm vọng động, loạn tưởng dẫn chúng ta đến sự mê mờ, đến nỗi đôi khi quên luôn việc chúng ta đang lái xe, …. Chúng ta càng kỹ lưỡng rèn tập niệm Phật theo từng động tác sinh hoạt của chúng ta hằng ngày một cách kiên trì, miên mật; thì khi đối duyên tiếp cảnh, “Lục Tự Di Đà” sẽ giúp chúng ta luôn sáng suốt, bình an, hạnh phúc.

KHI BẮT ĐẦU HẠNH TU “TRÌ DANH NIỆM PHẬT” CẦN XÁC ĐỊNH RÕ ĐÂY LÀ PHÁP MÔN TỐI THẮNG, TỐI THƯỢNG SẼ ĐƯA HÀNH GIẢ ĐẾN BỜ BÊN KIA (ĐÁO BỈ NGẠN- BỜ GIÁC- BỜ GIẢI THOÁT), VÀ ĐÂY LÀ ĐỨC TIN HÀNH GIẢ SẼ TRƯỞNG DƯỠNG MỖI NGÀY MỘT LỚN MẠNH HƠN LÊN , CHO ĐẾN KHI NÀO NÓ LÀ MỘT KHỐI KIÊN CỐ - KHÔNG SUY GIẢM, LUI SỤT MÀ KIÊN TRÌ GÌN GIỮ CHO ĐẾN NGÀY VỀ VỚI PHẬT. LỜI PHẬT DẠYCHÂN LÝ, PHÁP MÔN TU TRÌ PHẬT HƯỚNG DẪN LÀ PHƯƠNG CÁCH ĐỂ ĐẠT TỚI CỨU CÁNH GIẢI THOÁT - VÃNG SANH TỊNH ĐỘ . PHẬT TỬ NẾU NGHIÊN CỨU THẤU ĐÁO LỜI PHẬT DẠY, NỖ LỰCKIÊN TRÌ RÈN TẬP PHÁP “TRÌ DANH NIỆM PHẬT”. CÂU PHẬT HIỆU GẮN LIỀN THEO TỪNG HƠI THỎ RA-THỞ VÀO, THEO TỪNG ĐỘNG TÁC THÔ-TẾ CỦA THÂN, LỤC TỰ DI ĐÀ KHÔNG LÚC NÀO VẮNG NƠI TÂM TRÍSỐNG ĐỘNG, SOI SÁNG CHO HÀNH GIẢ TRONG TỪNG KHOẢNH KHẮC NHỎ NHIỆM NHẤT. NẾU KIÊN TÂM, TRÌ CHÍ SỐNG NHƯ THẾ TỪNG NGÀY QUA TỪNG NGÀY, THÁNG NÀY SANG THÁNG TIẾP THEO, NĂM NÀY TIẾP THEO NĂM TỚI. MỖI NGÀY TÂM MỘT KIÊN CỐ HƠN, ĐỨC TIN MỘT LỚN MẠNH HƠN (TÍN), CÔNG PHU NIỆM PHẬT MIÊN MẬT HƠN KHÔNG ĐỂ GIÁN CÁCH. CỨ MỘT LÒNG BỀN BỈ, AN LẠC, CHẲNG THEO VỌNG TƯỞNG - CHẲNG TÌM NHẤT TÂM-CHẲNG TRỤ TÂM LÀNH-CHẲNG DIỆT TÂM ÁC-PHẬT HIỆU HIỆN TIỀN-TÌM KIẾM ĐÂU XA-LỤC TỰ DI ĐÀ-DI ĐÀ LỤC TỰ-MÃI MÃI BÊN TA-LỤC TỰ DI ĐÀ.

 

Như vậy, những hành giả sơ phát tâm nên học theo gương tu học của người xưa là lập chí kiên định, đức tin mạnh mẽ không lui sụt, và hành trì liên tục không xao lãng trong tứ oai nghi: Đi - Đứng - Nằm - Ngồi. Rèn tập mỗi ngày không ngưng nghỉ; không cần nôn nóng đếm ngày, tính tháng, tính năm; Chỉ một lòng nhớ (NIỆM) Phật và sống cùng Phật. Nếu càng ngày càng nhớ Phật nhiều hơn nhớ chúng sanh (vọng tưởng, phiền não, điên đảo) thì càng ngày ta càng cảm nhận tự tâm bình an hơn, an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Rồi cứ tiếp tục kiên trì như thế, như thế. A Di Đà Phật! Không cầu, không tìm, không nôn nóng, không dục tốc, không nghi ngại, không nản lòng, không ngại khó, không lui sụt. Mà cứ thiết tha nhớ Phật trong từng khoảnh khắc nhỏ nhiệm nhất, Lục Tự Di Đà luôn hiện hữu trên môi, trên tâm trí, hay nói cách khác thân tâm hành giả luôn đang hành trì xưng tán danh hiệu A Di Đà Phật. Và cứ vững bền sống như thế ! Đúng vậy, hãy cứ bền lòng chặt dạ, thủy chung như nhất, không quản lâu xa; và đến một lúc nào đó (do hành trì miên mật, không gián cách) hành giả sống an lạcchuyên tâm hành trì trọn vẹn đúng theo lời Phật dạy. Lúc đó, thì khởi tâm CẦU “NHẤT TÂM BẤT LOẠN” LÀ VIỆC THỪA. Như thế thì ta không cần nhắm đến cầu “Nhất Tâm Bất Loạn” rồi cứ mãi lo lắng vì không biết có được không? Nếu cứ nuôi mãi tâm trạng như thế mà tìm cầu “Nhất Tâm Bất Loạn” thì biết chắc rằng sẽ không được. Rất đơn giản là ta lấy nhân hành trì là: “tâm loạn động” mà cầu quả :“tâm bất loạn”, thì rõ ràng là sẽ không gặt hái kết quả như mong cầu.

Chi bằng cứ nuôi chí dõng mãnh, lập hạnh kiên trì nhẫn nại, thiết tha hành trì Lục Tự Di Đà. Bền bỉ dụng công đừng tính tháng ngày, chỉ một lòng nhớ tưởng Phật. Thì với lòng tha thiết, thành khẩn, dâng trọn cõi lòng kính yêu chư Phật, Bồ Tát, … , lòng quyết tâm cầu giải thoát, lòng khát khao thành tựu được việc lớn để có thể làm lợi ích cho quần sanh. Người giữ được bản tâm như thế chắc chắn sẽ nhận được sự gia trì của chư Phật, chư Bồ Tát trên con đường học Phật. Và khi đến thời tiết nhân duyên, hành giả sẽ nhận được bản tâm thanh tịnh, tự tánh Di Đà của mình. Đó chính là phần thưởng chư Phật dành cho người hữu duyên, tâm thành.

Trên đây là những lời bộc bạch từ sở học cạn cợt, trí óc hạn hẹp của người viết. Nhờ đọc bài viết của cư sĩ Lưu Tâm Lực, tôi nghe có sự thôi thúc phải đặt bút viết bài này. Đây là những lời tâm sự chân thành, những trao đổi cụ thể về cách hành trì hữu hiệu pháp môn Trì Danh Niệm Phật. Hy vọng nó sẽ là những lời động viên, khích lệ quý đạo hữu (những người mới bước vào đường học Phật và đang khởi sự thực hành pháp môn Trì Danh Niệm Phật) xây dựng cho mình một đức tin kiên cố, mạnh mẽ và bền bỉ bước từng bước vững chải trên đường tìm về xứ Phật.

Do sự hiểu biếttrình độ tu học của người viết có giới hạn nên trong những phần bộc bạch trên đây chắc chắn có rất nhiều điều sai sót. Kính mong các bậc tôn túc, các vị thiện tri thức rộng lòng hỉ xả bỏ qua và kính xin quý vị sẽ từ bi ban cho kẻ hậu học này những sự bổ chính, những lời giáo huấn để người viết có cơ hội học tập hiểu 

thêm sự sâu nhiệm, sự diệu kỳ của Phật pháp vô biên!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 8 năm 2020

                                      Kính ghi,

 

                                   Nguyễn Tấn Phát

 

Ý kiến bạn đọc
11 Tháng Tám 202003:16
Khách
Hoa Lòng Tặng Nhau

Trì danh niệm Phật Di Đà,
Chí thành chí thiết tâm hoa rạng ngời
*Vui thay môi nở miệng cười,
"A Di Đà Phật" tặng người đóa hoa.

(*Hạnh phúc biết bao khi người Phật tử lòng an lạc, môi nở đóa hoa lòng, xưng tán danh hiệu Phật, chắp tay búp sen kính tặng nhau, chào vị Phật tương lai. A Di Đà Phật!)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8843)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10304)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11167)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
(Xem: 11152)
Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất.
(Xem: 10121)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11906)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11695)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11747)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10226)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9527)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10378)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9838)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11867)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11555)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10593)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11907)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10328)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10554)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10765)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11589)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 12338)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
(Xem: 10198)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9830)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10462)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9698)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11325)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9955)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 12043)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9734)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 22070)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10266)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9533)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10282)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16764)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14378)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10330)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9307)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9389)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13119)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10959)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12496)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10954)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13127)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11610)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9931)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12986)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11472)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13201)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12734)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
(Xem: 13529)
"Cơn Dông Giữa Mùa Hạ" là tựa đề bài tường thuật của Trần Thị Nhật Hưng nói lên nỗi niềm bâng khuâng và xúc động cùng những kỷ niệm tràn ngập dội về tâm trí của tác giả khi hay tin Sư Ông Khánh Anh viên tịch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant