Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Nhãn Thị Chúng Sanh

08 Tháng Tám 202009:13(Xem: 3167)
Từ Nhãn Thị Chúng Sanh

TỪ NHÃN THỊ CHÚNG SANH


H
ạnh Chi

 

“Cụ nhất thế công đức

Từ nhãn thị chúng sanh

Phước tụ hải vô lượng

Thị cố ưng đảnh lễ”

 

            Đây là lời tán thán Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, trong kinh Phổ Môn. Bài tán dạy rằng, với công đức đầy đủ, Ngài nhìn khắp chúng sanh bằng đôi mắt từ ái, sẵn sàng đáp lại tiếng kêu thương. Trước biển phước vô lượng như thế, chúng con đều cung kính đảnh lễ.

            Theo truyền thuyết, Bồ Tát Quán Thế Âm bắt đầu tu bằng cách lắng nghe. Ngài thường đến ven biển, ngồi trên ghềnh đá, lặng thinh nghe tiếng sóng vỗ ầm ì. Từng đợt sóng lớn nhỏ xô đẩy nhau, dạt vào bờ, tạo ra những chuỗi âm thanh vỡ vụn, khi như reo vui, lúc lại như nức nở. 

Tai (căn) nghe tiếng sóng (trần) lòng xôn xao (thức), khiến tâm Ngài đôi lúc dao động

Ngài bèn rời biển, đi vào rừng sâu, thiền định nơi thật khuất vắng, nhưng lạ thay, âm thanh của sóng biển rì rầm vẫn văng vẳng bên tai.

            Ngài chợt nhận biết rằng âm thanh này chẳng phải thực âm thanh mà chỉ là những chủng tử đã rơi vào tàng thức; rồi vì Ngài đang chú tâm vào cách lắng nghe nên những chủng tử này đã thức dậy. Chủng tử này chính là cái duyên, khi Căn gặp Trần và nảy sanh ra Thức.

            Căn gặp Trần tựa như hóa chất kết hợp nhau.Tùy hóa chất đó là gì thì sẽ sanh ra Thức phù hợp theo (Mắt thấy đóa hoa tươi, khởi niềm yêu thích, tai nghe tiếng sấm chớp thì sanh lòng sợ hãi …v…v…) 

Đó là Căn theo Trần mà tạo ra Thức phân biệt (đẹp, xấu, vui, buồn, yêu, ghét …) Vậy, muốn buông xả tâm cảnh là phải quán sát tự thể của chúng, thay vì nhắm mắt làm ngơ.

            Ngài bèn quay lại bờ biển, ngồi trên ghềnh đá cũ, lại nghe sóng biển xô đẩy nhau nhưng nay nghe bằng sự quán sát kỹ lưỡng.

            À, sóng có cao, có thấp, có lớn, có nhỏ, đuổi nhau từng lớp, ập vào bờ, tạo ra âm thanh lúc dịu dàng, lúc dữ dội

Sóng chẳng phải tự nhiên thành mà do duyên theo gió. Gió lớn tạo sóng to, gió nhẹ tạo sóng nhỏ. Nếu không có gió thì chẳng có sóng; nghĩa là, sóng đến và đi là theo duyên của gió chứ tự thể nước vốn không động, không tĩnh, cũng chẳng đến, đi.

            Quán sát được điều này, Ngài không để tâm mình duyên theo âm thanh của sóng nữa. Sóng đến, tâm không động; sóng đi, tâm không theo vì khi ấy Ngài không còn nghe bằng nhĩ căn nữa, mà nghe bằng Tánh-Nghe. 

Căn gặp Trần không còn khởi Thức nữa nên Tánh-Nghe đã nghe được cả sự tĩnh lặng, vì khi ấy sinh diệt, đến đi của âm thanh hoàn toàn không lay động tới Tánh-Nghe.

            Duy Thức Học đặt dấu mốc này là Bình-Đẳng-Tánh-Trí, là không còn Thức nữa, chỉ còn Trí.

            Một lần, Đức Phật muốn dạy đại chúng về Tánh-Nghe này nên bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi Đức Phật quay sang hỏi ngài A Nan:

            - Ông có nghe không?

            Ngài A Nanđại chúng thưa:

            -Dạ, chúng con có nghe.

            Chờ âm vang của tiếng chuông dứt hẳn, Đức Phật mới hỏi:

            - Ông có nghe không?

            Ngài A Nanđại chúng thưa:

            - Dạ, chúng con không nghe.

            Đức Phật lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa, rồi hỏi A Nan:

            -Ông có nghe không?

            Ngài Anan và đại chúng thưa:

            - Dạ, chúng con có nghe.

            Bấy giờ Đức Phật mới giảng giải:

            -Này A Nan, ông đang lầm lẫn giữa Nghe và Tiếng. Khi chuông không còn âm vang, ông nói là “không nghe”, nhưng nếu thực ông không còn khả năng nghe, thì sao khi tiếng chuông thứ hai ngân lên, ông lại nhận biết? Tiếng, trong Cái-Nghe tự nó sanh diệt là do âm thanh khi có, khi không; còn cái Nhận-Biết-Âm-Thanh có hay không, thì bất sanh bất diệt. Đó chính là Tánh-Nghe. Chớ lầm cái Tiếng thành cái Nghe mà dễ đưa tới sự lầm khác, là cái Thường ngỡ là cái Đoạn.

 

            Do công phu quán sáttu tập cách an trú trong Tánh-Nghe mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập ra pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông, từng được ngài Văn Thù Sư Lợi vâng lời Đức Phật, chọn là pháp môn thù thắng nhất trong các pháp môn của hai mươi lăm vị Bồ Tát lớn.

            Với đại nguyện cứu khổ cứu nạn chúng sanh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã vận dụng Tánh-Nghe vi diệu của bậc Đại Trí, dõi mắt thương nhìn khắp chúng sanh, lắng nghe tiếng kêu thương của ba cõi, sáu loài dù tiếng kêu thương đó hữu thanh hay vô thanh. Ngài thường tùy biển khổ mênh mông mà ứng hiện cứu độ.

 

            Ngày nay, du khách tới Nhật Bản, nếu ghé quần đảo Osaka, có thể ngạc nhiên khi tình cờ nhìn thấy tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được an vị trang trọng trong một ngôi nhà thờ. Đây là chứng tích mầu nhiệm, kỳ diệu, của tấm lòng Bồ Tát đã lắng nghe và đến với mọi nơi trong cơn nguy khốn.

            Theo truyền thuyết được ghi lại, thì tại Nhật Bản, thời Mạc Phủ cai trị, chính quyền rất kỳ thị Thiên Chúa Giáo. Các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha thường xuyên sống trong hồi hộp, lo sợ vì sự truy lùng. Khi chính quyền biết tin quần đảo Osaka còn một nhà thờ mà dân chúng đang được truyền đạo thì họ đã ra lệnh cho quân đội là phải tới ngay, không chỉ tàn sát các nhà truyền giáo mà còn tàn sát cả những ai theo đạo Thiên Chúa nữa!

            Được tin đó, Cha Xứ vô cùng hốt hoảng, không biết làm gì hơn là cùng với giáo dân, ngày đêm cầu nguyện Đức Mẹ Maria. Một lần, quá mệt, Cha Xứ ngủ thiếp đi. Trong cơn nửa tỉnh nửa mê, ông thấy một người nữ hiện ra rực rỡ trên bầu trời ảm đạm, trên tay cầm bình tịnh thủy, nhẹ nhàng rưới khắp quần đảo.

            Vì đã từng nghiên cứu về Đạo Phật nên ông biết vị hiện ra trong giấc mơ là Đức Bồ Tát Quán Thế Âm chứ không phải Đức Mẹ Maria; và bình nước trên tay Ngài là nước Cam Lộ xoa dịu thương đau.

            Choàng dậy, Cha Xứ hướng lên trời cao tạ ơn Bồ Tát. Ông đã hiểu ý lời chỉ dạy cứu nguy của Ngài nên vội vã cùng các giáo dân phác họa đơn sơ dung nhan Đức Quán Thế Âm, treo trước sân giáo đường rồi huy động giáo dân đến quanh, cầu nguyện và quỳ lạy như hình thức Đạo Phật.

            Khi quân lính của chính quyền đổ bộ vào quần đảo, họ chỉ thấy dân chúng đang kính cẩn quỳ lạy Mẹ Quán Thế Âm, chứ hình tượng này nào phải là Mẹ Maria của đạo Thiên Chúa

Đây chắc do tin tức sai lầm nên sau khi quan sátchiêm ngưỡng dung nhan Bồ Tát, họ đã lẳng lặng bỏ đi.

            Hiện tượng hy hữu, thờ Bồ Tát trong nhà Chúa là do sự kiện lịch sử này, chứng minh với tâm từ bi, với năng lượng nhiệm mầu và hạnh nguyện lắng nghe tiếng kêu thương mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã kịp thời cứu vớt sinh mạng hàng ngàn chúng sanh vô tội.

            Nương lời kinh tán thán công đức vị Bồ Tát ngàn mắt, ngàn tay, hàng Phật tử chúng con, năm vóc sát đất, cung kính cúi đầu đảnh lễ:

 

            “Nam Mô Đức Quán Thế Âm

            Vẹn toàn công hạnh, ân thâm cao dày

            Cam-lộ nước mát trên tay

            Tưới lên sân hận, dịu ngay oán thù

            Nhiệm mầu thay, nhánh liễu tơ

            Nhẹ nhàng phẩy sạch nhuốc nhơ bụi trần

            Tai lắng nghe, mắt thương nhìn

            Xót đau cùng khắp sinh linh ta-bà

            Nơi tận khổ, Ngài hiện ra

            Từ bi cứu độ hằng hà trầm luân

            Công vô lượng, Đức vô ngần

            Làm sao báo đáp muôn phần từ tâm!

            Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm”

 

Nam Mô Quá Khứ Chánh Pháp Minh

Hiện Tiền Quán Tự Tại

Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

Hạnh Chi 

(Tào-Khê tịnh thất – Ngày phát nguyện lạy Ngũ Bách Danh)

             

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4307)
Có bốn pháp vật thực là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thựcthức thực. Nhờ bốn thực ấy làm duyên, trợ sanh và nuôi dưỡng cho nên ...
(Xem: 4893)
Theo lăng kính Phật giáo, bệnh được tồn tại dưới 3 hình thức, đó là thân bệnh, tâm bệnh và nghiệp bệnh.
(Xem: 5452)
Triết Học Phật Giáo và Những Luận Đề -
(Xem: 7067)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn - Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn
(Xem: 6707)
Người đệ tử Phật chân chính, ngoài việc tu tập giới định tuệ để hướng đến viên mãn phước và trí, thành tựu giác ngộ giải thoát cho tự thân,
(Xem: 4166)
Đạo Phật ra đời và phát triển đến nay cũng đã hơn hai mươi lăm thế kỷ, ban đầu từ miền bắc Ấn Độ, sau đó lan truyền toàn xứ Ấn và phát triển sang các nước Trung Á, Nam Á, Bắc Á… và đến Âu, Mỹ hôm nay.
(Xem: 3640)
“Tôi được sinh ra đời là nhờ vào một ân sủng đầy sự thương yêu của con người và tạo vật. Sự thương yêu ấy có cả chính bản thân tôi..."
(Xem: 3892)
Chúng ta thường nghe tới nhóm chữ “tri kiến như thật.” Tức là biết và thấy như thật. Câu hỏi là: Đức Phật dạy gì về biết và thấy như thật?
(Xem: 3527)
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh ngắt sương khô, Não người thay buổi chiều thu, Ngàn lau khóm bạc lá ngô đồng vàng
(Xem: 3653)
Chúng ta đã biết phải làm gì đối với cha mẹ, dù có hay không có sự yêu cầu: hãy thương kính và làm gì đó để biểu hiện niềm thương kính ấy khi cha mẹ còn sống
(Xem: 4466)
Ngày xửa ngày xưa, dưới chân Hy Mã Lạp Sơn có một vương quốc trù phú tên gọi Thắng Man. Dù là một vương quốc giàu mạnh nhưng...
(Xem: 4557)
Trong Kinh Pháp Cú có một số bài khá phong phú đề cao chánh phápchánh pháp đóng một vai trò rất quan trọng...
(Xem: 5534)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14, vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, đã sống lưu vong tại Ấn Độ kể từ năm 1959 khi chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc xua quân xâm chiếm Tây Tạng...
(Xem: 6157)
Thuở xưa, có một đạo sư tên là Araka, người đã thoát ly sự thèm khát dục vọng. Đạo sư này có hàng trăm đệ tử.
(Xem: 3915)
Chúng ta thường nghe “tạo nhân nào hưởng quả nấy”, mà kỳ thật, đời sống của cộng đồng người trên thế giới hôm nay, được xem nhưthành quả của một đời sống mang tính tương tác tương thọ liên hệ từ quá khứ đến hiện tại.
(Xem: 4963)
Ảnh hưởng của Phật giáo ở Châu Á nói riêng, toàn thế giới nói chung là đậm nét và sâu sắc.
(Xem: 5271)
Quả vị Sa-môn hay bốn quả Sa-môn, bốn quả Thanh văn, bốn quả Thánh gồm Sơ quả Tu-đà-hoàn (Dự lưu, Thất lai)
(Xem: 4613)
Này A Nan, cũng như một cái cây, nếu nghiêng về phía nào, thì khi người ta đốn ngã nó sẽ đỗ về phía đó (trọng lực), một chúng sanh sau khi chết cũng sẽ theo nghiệp mà đi như thế ấy.
(Xem: 4908)
Giáo pháp hay kinh điển là lời dạy của Đức Phật, đó là chân lý, là sự thật, là những gì Đức Phật chứng ngộ, khám phátuyên thuyết, mang lại sự an lạc giải thoát cho người hành trì.
(Xem: 3523)
Theo tác giả, nước là trung tâm của mọi nguyên tố (element) trên trái đất. Không có nước là không có sự sống. Cho đến nay không có bất cứ vật thể gì tồn tại được nếu thiếu nước.
(Xem: 4035)
Khúc đàn Khổng-Vọng-Vi là tiếng khóc của Đức Khổng Tử, tiếc thương người đệ tử thân yêu Nhan Hồi, mệnh yểu mà chết sớm khi tuổi còn thanh xuân.
(Xem: 4119)
Đó là bài học đầu tiên đại-sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử ông vừa thâu nhận, sau này chính là thiền-sư Soko Morinaga, nổi tiếng của xứ Phù Tang.
(Xem: 4552)
Trọn câu mở đầu là: “Nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng nửa sự thật thì không phải là sự thật !”
(Xem: 3659)
... những hành giả sơ phát tâm nên học theo gương tu học của người xưa là lập chí kiên định, đức tin mạnh mẽ không lui sụt, và hành trì liên tục không xao lãng trong tứ oai nghi: Đi - Đứng - Nằm - Ngồi.
(Xem: 3243)
Đại dịch coronavirus bùng phát lần nữa tại Việt Nam, Hoa Kỳ và hầu hết các nước trên thế giới. Tính tới tuần lễ đầu tháng 8/2020, thế giới có gần 700,000 người chết vì đại dịch
(Xem: 4342)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từng nói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì...
(Xem: 3761)
Khổ đau bao trùm cả nhân loại, cả thế giới. Đó là một sự thật, không ai có thể chối cãi.
(Xem: 5297)
Chúng ta đơn thuần cứ nghĩ bệnh là do thể trạng sức khỏe không thuận không tốt, do đề kháng yếu nên vi khuẩn vi rút từ môi trường tác động vào cơ thể mà sinh bệnh.
(Xem: 5164)
Phái đoàn các vị Lệ-xa ở Tỳ-xá-ly khi đi đến Đức Phật đang ngự trong vườn xoài Am-bà-bà-lê được xem như biểu tượng của sự xa hoa, sang trọng, quý phái bậc nhất đương thời.
(Xem: 5509)
Trong cuộc sống đời thường có nhiều người vì phải đối diện với những bế tắc, khổ đau cùng cực không thể vượt qua được để rồi tìm đến cái chết
(Xem: 4934)
Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh như vua sư tử…”
(Xem: 5000)
Hỏi “đi tu là đi đâu?” nghe có vẻ dư thừa. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi này.
(Xem: 4240)
Trong thuật ngữ nhà Phật, không có từ tiêu diệt, triệt tiêu, loạt trừ, khống chế, áp đặt, cấm đoán…
(Xem: 4246)
“Sống” và “chết” với giáo lý vô ngã
(Xem: 4328)
Đại lâm, Mahā-vana, là khu rừng phụ cận thành Tỳ-xá-li, Trung Ấn, còn gọi Kūṭāgara-śalā, tức Trùng-các giảng đường, hay ...
(Xem: 4386)
Đức Phật khi tuổi đã 80, sắp nhập Niết-bàn mà vẫn thực hành an cư là một trong những tấm gương sáng ngời cho người xuất gia hậu thế.
(Xem: 4517)
Sống trong cuộc đời cũng thế. Từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành, chúng ta luôn chịu ảnh hưởng bởi "hiệu ứng đám đông".
(Xem: 5473)
Vạn pháp do tâm tạo, cũng do tâm mà có khởi có diệt. Ví như nỗi buồn phiền sinh khởi là do tâm chấp vào sự vật, sự việc xảy ra
(Xem: 4576)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Gyatso, là lãnh tụ tinh thần và thế quyền của dân tộc Tây Tạng.
(Xem: 4451)
Lòng bi mẫn toàn cầu có nghĩa là mở rộng phạm vi quan tâm của chúng ta vượt ra ngoài ...
(Xem: 5582)
Trong kinh điển có rất nhiều bộ kinh quý, kinh nào cũng là tối thắng thừa, là vua của các kinh vì nương theo
(Xem: 5947)
“Vô niệm" là không vọng niệm. Hãy để cho những tư tưởng, tình cảm của bạn tự nhiên đến và đi; đừng gắn cho chúng bất kỳ ý nghĩa nào
(Xem: 4704)
Trước khi diệt độ, Đức Phật đã ban bố những di huấn quan trọng cho các đệ tử về sau nương tựa tu hành.
(Xem: 9081)
Trong cuộc sống vô thường của kiếp sống nhân sinh thì nghiệp quả luôn đi đôi song hành với kiếp sống của con người.
(Xem: 5409)
Tâm là vô hình, không thể dùng ngôn ngữ mà biết được, tâm liên kết với thân xuất xa bảy cửa ngõ là
(Xem: 4935)
Mùa mưa là mùa chư Tăng Ni bắt đầu thực hiện phận sự an cư.
(Xem: 4315)
Thuở ấy nơi thành Ca Tỳ La Vệ của xứ Ấn Độ nhiều tín ngưỡng, nhiều giai cấp và nhiều bất công, đấy là nơi lý tưởng cho họ sinh ra và gặp nhau để nối mối lương duyên kết thành vợ chồng trong kiếp cuối cùng
(Xem: 3551)
Có vẻ như con người thời nay càng lúc càng trở nên lười biếng, thụ động; nhất là từ khi nhân loại bước vào kỷ nguyên tin học, truyền thông liên mạng
(Xem: 4740)
Âm thanh tụng Tâm Kinh thì thầm lan toả trong trời đất, làn sóng âm nhè nhẹ xao xuyến xuyên thấm vào lòng người và cả phi nhân.
(Xem: 6408)
Ngàn năm, Giọt nước có buồn không Sao vẫn long lanh Dưới ánh hồng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant