Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Sự Có Thế Nào Thì Chánh Pháp Vẫn Luôn Miên Viễn

24 Tháng Mười Một 202018:29(Xem: 4484)
Dù Thế Sự Có Thế Nào Thì Chánh Pháp Vẫn Luôn Miên Viễn
Thế Sự Có Thế Nào Thì Chánh Pháp Vẫn Luôn Miên Viễn

Thích Trung Định

Giải Thoát Qua Cái Thấy

 

Người Phật tử khi đã xác quyết với Tứ bất hoại tín, ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin vào thánh giới thì dù thế sự có thế nào thì tâm vẫn luôn kiên định, không lung lay. Xây dựng niềm tinvấn đề căn bản của người đệ tử Phật. Niềm tin ở đây luôn có sự suy xét của lý trí, sau khi thấu hiểu rồi mới tin theo chứ không tin một cách mù quáng.

Nhiều người khi thấy một vài biểu hiện không chánh đáng trong Phật giáo liền cho rằng chánh pháp hoại diệt hay gán cho một khái niệm đó là dấu hiệu của thời kỳ mạt pháp. Rồi thối tâm, để mặc cho chúng trôi theo dòng đời, dẫn đến khổ đau muộn phiền. Trên thực tế, chánh pháp không bao giờ mạt mà lòng người mạt và đạo đức nhân tâm suy đồi. Biết được như vậy, ta không mất niềm tin nơi Tam bảo, mà quyết tâm bảo vệ đạo pháp.

 Thời Phật tại thế những dấu hiệu suy giảm đạo đức cũng từng xảy ra. Nhóm lục quần Tỷ kheo là những ví dụ điển hình. Câu chuyện tại Kosambi khi vị sư trì luật và vị sư trì kinh tranh cải nhau dẫn đến bất hòa trong Tăng chúng, đến nổi Đức Phật phải bỏ vào rừng ẩn cư tu tập, cho đến khi mọi người thành tâm sám hối, mâu thuẩn chấm dứt Đức Phật mới trở về.

Có lần Tôn Giả  Đại Ca Diếp thắc mắc vì sao trước đây khi Phật chưa chế giới, Tăng chúng ít hữu lậu xảy ra, chúng Tỳ kheo ham học; còn ngày nay giới luật được chế thêm nhiều thì chúng Tỳ kheo lại ít học tập. Đức Phật giải thíchchúng sanh đạo đức suy giảm nên học giới nhiều mà ít người chứng đắc thánh trí. Ngài nói thêm: “Này Ca-diếp, thí như lúc kiếp sắp chuyển hoại, tuy vật báu thật chưa diệt mất, nhưng vật báu ngụy tạo tương tợ lại xuất hiệnthế gian. Khi vật báu ngụy tạo xuất hiện, vật báu thật sẽ mất. Cũng vậy, Ca-diếp, Chánh pháp Như Lai lúc sắp muốn diệt, lại có tượng pháp sanh ra. Khi tượng pháp đã xuất hiệnthế gian rồi, Chánh Pháp sẽ bị diệt.”[1] Qua đó, có thể thấy, ngay thời Đức Phật còn tại thế, đã có hiện tượng các Tỳ kheo phóng túng. Tuy nhiên, Chánh pháp Như Lai vẫn lưu  xuất trong thế gian vì đã có những đệ tử của Phật biết nghiêm tri giới luật, thực hiện đúng lời dạy của Ngài. Nhờ luôn có những bậc chân tu đáng kính biết rõ giá trị giáo pháp của đấng Từ phụthực hành đúng, Chánh pháp Như Lai đã tồn tại trên thế gian; được truyền bá ở Châu Á rồi được lưu truyền đến tận ngày nay trên khắp thế giới. Mặc dầu vậy, Đức Phật đã cảnh giác về sự xuất hiện của tượng pháp, là pháp tương tự, có vẽ giống với Chánh pháp nhưng thực ra đã bị xuyên tạc, và nguy hiểm ở chỗ mọi người cứ tưởng giáo pháp đã bị xuyên tạc như vậy là Chánh pháp đã được Đức Phật đích thân giảng dạy.

Những câu chuyện về sự tích giới luật được ghi lại trong luật tạng cũng có nội dung tương tợ như vậy. Theo truyền thống, các Đức Phật chỉ thành lập giới điều khi cần thiết, khi có đầy đủ nguyên nhânđiều kiện. Nghĩa là khi có một hiện tượng hữu lậu xảy ra làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Tăng đoàn, Đức Phật liền chế định một giới điều tương ứng nhằm ngăn chặn các pháp hữu lậu khác diễn ra. Ngài dạy: “Này Tôn giả, Ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên Ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới.”[2]

Như vậy, các hiện tượng hữu lậu xảy ra trong Tăng đoàn thời Phật là bằng chứng xác minh tâm tánh chúng sinh và sự cần thiết của giáo pháp để đối trị. Nói như vậy không phải để biện hộ cho những hành động xảy ra bây giờ là điều tất yếu. Thời nay đạo đức suy đồi, lòng người tham đắm nhiều nên chúng ta đang xa Phật, xa rời Chánh pháp. Tuy nhiên cho dù thế sự có thế nào đi nữa thì chánh pháp vẫn là miên viễn. Trong tám đặc tính của biển, có một đặc tính đó là: “Nếu biển không vơi đi thì cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông liên tục chảy về biển cả, chánh pháp cũng vậy, chánh phápchánh pháp, không phải vì nhiều người đi theo mới là chánh pháp, hay không phải ít người đi theochánh pháp không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không bao giờ đánh giá được chân lý của đạo pháp này.”

Lời khẳng định trên cho chúng ta thấy, chân lýĐức Phật tuyên thuyết luôn khế lý, khế cơ và khế thời. Lời Phật dạy là bất hư vọng ngữ, bất cuống vọng ngữ, chân thật bất hư. Lời kinh luôn đúng với chân lý, hợp với căn cơ của chúng sanhthời đại nào cũng phù hợp. Những pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô thường, Vô ngã luôn có giá trị miên viễn. Hơn hai ngàn mấy năm qua, cho đến bây giờ những giáo pháp ấy vẫn còn nguyên giá trị.

Trong thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng dân số Phật tử Việt Nam và trên thế giới suy giảm. Những thống kê chưa chính xác nhưng cũng gây ảnh hưởng đến trong nhận thức của người con Phật. Thực tế không phải xây dựng chùa to Phật lớn hay đông đúc Phật tử mới gọi là Phật pháp hưng thịnh. Mà ở nơi nào, người con Phật thực tu, thực học và có sự chứng ngộ tâm linh thì nơi đó chánh pháp hưng thịnh. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không đánh giá được chân lý của đạo pháp này. Bởi chánh phápchánh pháp, đó là chân lý miên viễn không giới hạn bởi không gianthời gian. Dù ở đâu, bất cứ khi nào thì chân lý ấy vẫn vậy. Chúng ta nghe lời khẳng định của Tôn giả A-nậu-lâu-đà rằng:

“Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác.” (Kinh Di Giáo)

Là người con Phật, nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biếnvô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyếnthương tâmCuộc đời là như thế, nên cần phải nỗ lực tinh tấn để tu tập thành tựu giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự vận hành không kiên định. Do đó, người con Phật hãy vững tâm an định không lung lay trước sự thịnh suy của cuộc đời. “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Thành ra, muốn chánh pháp cửu trú trên thế gian, người con Phật phải hành trì theo lời chánh pháp. Đức Phật dạy: “Có năm pháp, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp. Thế nào là năm? Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống kính trọng, tùy thuận bậc Đạo Sư (đức Phật), sống kính trọng, tùy thuận Chánh pháp, sống kính trọng, tùy thuận chúng Tăng, sống kính trọng, tùy thuận học giới, sống kính trọng tùy thuận Thiền định. Chính năm pháp này, này Kassapa, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp.”[3]

Tóm lại, khi nào còn có người tôn trọng, kính trọng Đức Phật, kính trọng Chánh phápkính trọng chúng Tăng, tôn kính các học giới thì khi đó chánh pháp vẫn còn tồn tại. Đây là thước đo chính xác nhất để nhận biết chánh pháp tồn tại hay không tồn tại trên thế gian này. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, chánh pháp thường còn và mãi mãi bất diệt ở thế gian

Ghi chú:

[1] Thích Đức Thắng,  dịch, Bản kinh số 1.287,  Pháp Tướng Hoại, kinh Tạp A Hàm.

[2] See, I.B. Horner, M.A, (trans.), Book of the Discipline, Vinaya pitaka, v.2, Suttavibhaṅga, London: PTS, 1969, p. 18-19.

[3] Thích Minh Châu, dịch, Đại tạng kinh Việt Nam Nam Truyền, Kinh Tương Ưng Bộ, Tập 1, NXB. Tôn giáo, 2015, p. 567.

 

Báo Giác Ngộ, số 1073

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1387)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1237)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1303)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1366)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1346)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1470)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1364)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1434)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1426)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1309)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1381)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1397)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2090)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1424)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1450)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1317)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1577)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1432)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1287)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1254)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1313)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1293)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1438)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1158)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1151)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1338)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1364)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1123)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1246)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1174)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1341)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1321)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1457)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1561)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1301)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1272)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1415)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1458)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1372)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1720)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1355)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1340)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1381)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1221)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1257)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1385)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1503)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1578)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant