Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Mà Bất Chuyển

18 Tháng Mười Hai 202018:04(Xem: 4179)
Chuyển Mà Bất Chuyển

CHUYỂN MÀ BẤT CHUYỂN

Chân Hiền Tâm

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Thời tiết xoay vần xuân lại thu
Xăm xăm tuổi trẻ đã bạc đầu
Giàu sang nhìn lại một trường mộng
Năm tháng ôm suông một hộc sầu

Xuân, hạ, thu, đông rồi xuân, hạ, thu, đông. Bốn mùa thay đổi. Xuân đến là xuân sinh. Xuân đi là xuân diệt. Đông đến là đông sinh. Đông đi là đông diệt. Sinh sinh diệt diệt xoay vần. Con người sinh ra rồi chết. Khoảng giữa ấy là bệnh và lão. Cũng có những khoảng lão bệnh không hiện hành, chỉ thấy sống và chết vội vả.

Chết thật nhiều mà sinh cũng không ít. Cứ theo nghiệp lực mà đi, từ dạng này sang dạng khác, từ con người sang súc sinh, lên thiên đường rồi xuống địa ngục. Cảnh giới theo đó mà thay đổi. Thiên đường dù đủ bốn mùa, hạ cũng mát mẻ, đông chẳng cô hàn. Địa ngục dù đủ bốn mùa, cũng loang quanh với hàn lạnh và nóng bức. Chỉ cõi người là pha trộn mọi thứ. Một chút thiên đường. Đủ để lôi người đời tham sống sợ chết. Một chút địa ngục. Đủ để người đời dừng lại và quay đầu. Rất nhiều thứ đang rục rịch để biết sự sống đang hiện diện. Sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, như bồn mùa xuân, hạ, thu, đông, mưa rồi nắng.

Sinh và diệt, sống và chết là hai trạng thái bắt đầu và chấm dứt của một hiện tượng hay một sinh vật. Khoảng giữa ấy là trụ và dị. Sinh ra và tồn tại đó, là trụ. Một sự tồn tại luôn biến dịch, không trạng thái nào giống trạng thái nào, là dị. Người đời chỉ thấy sinh, trụ rồi diệt. Ít ai nhận được mặt biến dịch liên tục này trong đời sống con người. Song đời người là thế. Các sinh vật khác cũng như thế. Biến dịch thay đổi lên tục. Chết, nhưng không phải ngay lúc chết ấy mới chết, mà đang chết từng giờ, từng phút, từng giây, trên từng sát na. Chính cái chết trong từng sát na đó mà con người trưởng thành, lớn lên, già và … chết.  

Trong hội Lăng Nghiêm, khi được hỏi về thân thịt của mình là kim cang hay hoại diệt, vua Ba-tư-nặc trả lời: “Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay rồi cũng hoại diệt”. Phật hỏi: “Ông chưa từng diệt, sao biết sẽ diệt?”. Ông không trả lời nhìn thiên hạ thì biết. Có ai sinh ra mà không chết? Sống thọ như Bành Tổ rồi cũng chết. Đạo lực như Phật rồi cũng chết. Dù tôi đòi cùng kiếp hay tôn quý tột bực, có sinh là có diệt, chỉ là sớm hay muộn, trẻ hay già. Chết thì thân hoại mạng chung... Ông trả lời, thân vô thường biến hoại của con đây, tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy hiện tiền mỗi niệm dời đổi mãi không dừng, như lửa thành tro dần dần tiêu mất. Vì dứt mãi không dừng, nên con biết thân này nhất định phải theo đó mà hoại diệt. Một cái thấy không như người đời. Biết thân này sẽ diệt vì hiện tại thân này đang dời đổi. Như lửa nương củi mà cháy. Củi thành tro, lửa cũng dừng. Nếu thân này không có sự biến dịch, ắt con nít không thành người lớn, người lớn không thể già đi, và người già cũng không thể chết. Song con người sinh ra, lớn lên, già và chết. Mọi thứ thay đổi không dừng. Phật nói: “Niệm trước diệt làm duyên cho niệm sau sinh[1]. Cái trước phải diệt, cái sau mới sinh. Niệm trước không diệt, không đủ duyên để niệm sau sinh. Qui luật phủ định của phủ định mà các nhà Duy vật biện chứng đã nói cũng có cái nhìn tương tự. “Một sự phủ định làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. Đó là sự phủ định biện chứng”[2].

Thân tâm mình không phải là một khối bất di bất dịch. Nó là một dòng chuyển biến liên tục, nhưng mình không thấy được điều đó. Mình không thể thấy thân mình trước hai giây và sau hai giây không còn như nhau. Mình không có thời gian để chiêm nghiệm như vua Ba-tư-nặc từng chiêm nghiệm. “Tuy thấy cái già thay đổi giới hạn trong mười năm, nhưng xét kỹ con thấy không những nó thay đổi trong mười năm hay hai mươi năm mà thực nó thay đổi từng năm. Chẳng những nó thay đổi từng năm mà thay đổi từng tháng. Chẳng những nó thay đổi từng tháng mà thay đổi từng ngày. Chẳng những nó thay đổi từng ngày mà xét kỹ là thay đổi từng sát-na. Trong khoảng một niệm không dừng...”[3]. Trẻ con, trưởng thànhgià nua, tướng chúng không như nhau. Không phải chỉ ba tướng đó mà tất cả tướng ở thế gian đều đang biến đổi trên từng sát-na. Tướng của sát-na trước không phải là tướng của sát-na sau, chúng khác nhau. Đã có một sự chuyển dịch, âm thầm, vượt ngoài cái thấy thường tình của người đời.  

Tuy vậy, Trung luận nói:

Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không một cũng không khác
Không đến cũng không đi  

Đọc thì ai cũng đọc được, nhưng hiểu thì không mấy người hiểu. Hiểu thì có thể hiểu được, nhưng không mấy ai có thể thực nghiệm để họa thành thơ như Trúc Lâm Đại Đầu Đà:

Ngày nay, khám phá mặt Đông hoàng
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm hồng rơi

Bộ mặt Đông hoàng, tánh thực của vạn pháp. Tánh đó không sinh cũng không diệt... Xuân, thu thấy có đến đi mà thật là không đến đi, thấy có sinh diệtthật khôngsinh diệt. Thân này thấy có sống chết mà thật là không sống chết, thấy có chuyển biếnthật khôngchuyển biến. Nói “mà thật…” là muốn nói tướng thấy có đó mà bản chất thì không, như ngủ rồi mộng, mọi thứ thấy diễn biến như thật nhưng chỉ là mộng, ngay trong mộng chúng đã không, không đợi tỉnh mộng mới thành không. Tướng thấy chuyển mà không lìa tánh bất chuyển. Tướng thấy sinh mà không lìa tánh bất sinh. Tướng thấy diệt mà không lìa tánh bất diệt. Nên sinh mà không sinh, diệt mà không diệt, đi mà không đi, đến mà không đến. Tướng thì thấy có mà tánh thì không. Nói không, chẳng phải cái không đối với có mà là cái không vượt ngoài có và không, chỉ tùy duyên hiện có hay không. Tuệ Trung Thượng Sĩ nói kệ:

Đoán rằng không hữu chẳng khác nhau
Sinh tử vốn từ mạch sóng cao
Trăng sáng tối qua, nay trăng sáng
Hoa cười năm mới, năm cũ hoa

Không và có, tướng thấy khác nhau mà tánh thật không khác. Sinh tử hiện tiền do bởi vọng tưởng trào dâng, chẳng có gốc thật. Sóng mòi dù lăn tăn hay ồn náo vẫn không ngoài biển cả mênh mông. Một niệm bất giác tâm động, theo đó lưu chuyển mà có chúng sinhthế giới. Vọng dừng thì sinh tử dứt. Chẳng theo vọng tưởng thì trăng sáng tự hiện. Qua hay nay, trăng vẫn không khác. Nở hay tàn vẫn chỉ là hoa. Nơi những lưu chuyển không dừng, vẫn hiện diện ở đó một dòng bất chuyển.    

Đại sư Hám Sơn, khi còn trẻ, đọc được bài kệ trong Triệu luận, khởi nghi tình đối với nghĩa “bất chuyển” trong nhiều năm. Đến khi khắc lại luận đó, đọc lại bài kệ, hoát nhiên đại ngộ. Đứng lên lễ Phật thì thấy thân mình không có tướng lễ xuống hay đứng lên. Nhìn trời, thấy gió thổi lá rơi mà lá không có tướng nào động. Tiêu tiểu nhưng không thấy nước có tướng lưu chuyển, mới nhủ với mình rằng: “Nếu chỉ dùng cái tri thức đây để hiểu, mà không phải là chân tham ngộ, thì không thể không khỏi nghi”. Đúng là không có sự trải nghiệm thì không thể hiểu những gì xảy ra không theo lối thường tình. Rồi như nhắn nhủ với mọi người: “Động tịnh đến cùng cực không dễ gì nói cho người khác tin. Những lời nói ấy, chỉ cốt người lìa ngôn nhận ý, không chấp theo ngôn từ mà đánh mất ý chỉ[4]. Những lời nói ấy, chỉ cho bài kệTăng Triệu nói về nghĩa bất chuyển.

Gió bão bay núi mà thường tịnh
Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng động
Trăng qua bầu trời mà chẳng đi

Mấy ai trong cõi nhân gian thấy được gió bão bụi trần lăng xăng mà không động? Chỉ thấy xuân, hạ, thu, đông rồi xuân, hạ, thu, đông. Xuân đến rộn ràng, bướm lượn chim ca. Đông sang u ám, gió lạnh cô lòng. Tình cảm theo đó như nước thủy triều, lênh lênh láng láng. Bầu rượu túi thơ nương đó ngút ngàn, vui buồn theo cảnh vật đổi dời. Tĩnh lặng bên trong nhường chân cho niệm tưởng lăng xăng. Cảnh động bên ngoài, thêm đầy vơi được mất. Không có chỗ để tĩnh mặc. Không còn chỗ cho tâm yên. Bởi đó, không thể nào nhận được ngay cái động, động mà vẫn tịnh. Trong cái tịnh, tịnh không lìa động. Tịnh động làm duyên cho nhau cùng sinh khởi. Thực nghiệm được mặt duyên khởi này của pháp thì sống được với bộ mặt Đông Hoàng. Tịnh duyên động còn chưa có phần, bộ mặt Đông Hoàng làm sao nhận được?

Nghiệp thức của phàm phu, chỉ thấy được mặt lưu chuyển của vạn pháp. Xuân đến, xuân đi, thu tàn, đông đến. Mọi thứ luôn rộn ràng nhộn nhịp. Thánh Nhị thừa, nhận được mặt không tịch của vạn pháp, an trú trong Niết-bàn tịnh lạc, không còn thấy đổi dời, không còn thấy thu đông, chỉ một trời an lạc bình yên. Phàm phu đuổi theo cái sinh. Nhị thừa trú trong cái diệt. Chỉ bậc “không thánh không phàm” mới nhận được mặt động tịnh không hai, sinh tử tức Niết-bàn, gió bão bay núi mà thường tịnh, trăng qua bầu trời mà chẳng đi. Đi đi đến đến mà chưa từng đi đến. Sinh sinh tử tử mà chưa từng tử sinh. Bởi vậy, vào trong sinh tử mà không nhuốm màu sinh tử, được mất dẫy đầy mà không vướng mắc buồn vui. Chỉ biết nhắn lại với hậu sinhGiàu sang nhìn lại một trường mộng/ Năm tháng ôm suông một hộc sầu”. Bận tâm chộn rộn cả đời, ra đi cũng hai bàn tay trắng. Lẫn mộng thành thực, đuổi theo hư vọng, vui, buồn, sầu, bi, khổ, não theo đó mà sinh. Sinh rồi huân, tích tụ mà thành chướng. Phàm phu, phiền não sở tri hộc nào cũng đủ. Thánh nhân chưa hết phân biệt, chưa thể thoát hộc sở tri. Sinh tử nương đó mà triền miên. Phàm phu, bị cái khổ của Phần đoạn tử. Thánh nhân, Biến dịch tử chẳng thể không.   

Thánh Nhị thừa chứng nghiệm cõi này vô thường tạm bợ. Không đợi thánh Nhị thừa mới chứng nghiệm được điều đó. Những kẻ lang thang phố chợ bây giờ cũng thấu được như ai. Không có gì còn hoài. Không có gì đứng yên. Sinh ra, lớn lên rồi chết. Chỉ là sớm hay muộn, lâu hay mau. Cuộc đời quả vô thường! Ừ, không thường chút nào! Không thường nhưng không đoạn. Chỉ là sự thay hình đổi dạng. Chết, để có một đời sống khác. Bởi vòng nghiệp lực vẫn còn. Thành đừng nghĩ chết là hết mà buông trôi rồi … hối tiếc. Chết, chưa hết. Mọi thứ đang tiếp diễn. Vòng nghiệp lực vẫn đang xoay. Bởi thế, đông dù u ám bao nhiêu cũng đừng chơi dại mà tự tử. Khổ đau một trời không thể thoát. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, muôn kiếp lầm than. Bởi không thường mà không đoạn. Ngay cái không thường không đoạn ấy, bộ mặt Đông Hoàng vẫn đầy đủ. Sao chẳng lìa đoạn lìa thường mà nhận lấy?  

Ba-tư-nặc sau khi giải trình xong thân con không chỉ biến đổi từng năm, từng tháng, từng ngày mà biến đổi trên từng sát-na, liền được hỏi: “Ông thấy sự thay đổi không dừng nên nhận ra sự hoại diệt nơi thân ông. Nhưng ông có biết trong tấm thân hoại diệt ấy, có cái gì không hoại diệt?”. Nhà vua trả lời không biết. Không biết do vô minh, chẳng phải nhờ hết sở tri phân biệt. Phật nói: “Nay tôi chỉ cho ông tánh chẳng sinh chẳng diệt”. Phản phất đâu dó hơi hướm của Trung luận, Bát-nhã, Lăng-già...

- Đại vương! Như ông nói, khi hai mươi tuổi đã già hơn mười tuổi. Đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi dời. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông Hằng, so với khi sáu mươi thấy sông Hằng, cái thấy ấy thế nào?

- Bạch Thế Tôn, ba tuổi hay sáu mươi đều không khác.

- Nay ông cảm thương tóc bạc da nhăn, mặt ông nhất định nhăn hơn trước, nhưng cái thấy sông Hằng lúc lên ba và khi sáu mươi, có già có trẻ?

- Bạch Thế Tôn, không vậy.

- Đại vương! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy chưa từng nhăn (Phật nói tánh thấy, chẳng nói cái thấy). Bị nhăn thì biến đổi mà không bị nhăn thì chẳng biến đổi. Biến đổi thì phải chịu sự hoại diệt. Chẳng biến đổi vốn không sinh diệt. Vì sao trong ấy lại chịu cái sinh tử của ông, mà ông dẫn lời của nhóm Mạt-già-lê bảo rằng thân này sau khi chết hoàn toàn mất hẳn? 

Thân này không thường nhưng không đoạn, không có gì mất hẳn. Sinh, diệt, đến, đi, một, khác… đều không lìa bộ mặt Đông hoàng không sinh, không diệt, không đến, không đi, không một, không khác… Nghĩa là, “Trong thân sinh diệttánh không sinh diệt. Hiện tiền sinh diệt như kia, chẳng sinh chẳng diệt như đây. Chân tại vọng, thật tại hư, phân biệt tùy duyên, biết bóng ngựa đâu phải vật khác. Vô thượng bí mật chỉ tại trước mắt, do bất giác đổi dời mà trôi nổi trong nhiều kiếp. Xét về con mắt, nhất định có cái thấy, lỗ tai nhất định có cái nghe, một người phản quan, ngàn thánh đồng một con đường, liền đó tự tin thì mười đời chẳng đổi. Đâu cần đợi bỏ thân này sinh đời sau mới biết chẳng sinh chẳng diệt? Một phen nhận nghĩa dời đổi, niệm niệm chẳng dừng, há chẳng phải là tâm sinh diệt? Tâm mê, lầm thân tâmthế giới thì theo đó nổi trôi chẳng an trụ. Chính khi ấy gặp mặt theo nhau, nếu tự chẳng phải túc trí, chưa dễ gì rõ biết. Nên Thế Tôn vẫn hỏi, ngày nay xem sông Hằngxưa kia, có già có trẻ? Chân tánh đã bày, chẳng rơi vào suy nghĩ, tùy thấy, tùy biết, xưa nay đâu khác. Là Thế Tônchúng sinh trong mê mà lựa ra cái không mê. Một chỗ tự giác thì toàn thể đều rõ. Cho nên nói, hiện lượng của năm căn, cùng với thức thứ tám đồng công, thường tại trước mắt mà chẳng tự biết, một phen gặp được liễu duyên, liền đồng bổn đắc[5]. Hội chăng?

Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện
Sen nở hương nồng chẳng dính nhơ
Khúc nhạc xưa nay nên gẩy hát
Chớ tìm nam bắc với đông tây [6]            


[1] Luận Trung Quán.

[2] Triết học Mác Lê-nin

[3] Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

[4] Thiền Đạo Tu Tập - Hám Sơn Ngữ Lục - Trương Trừng Cơ.

[5] Lời bàn của thiền sư Hàm Thị trong Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ - Bản dịch của TT Thích Phước Hảo. 

[6] Kệ thị chúng (Tuệ Trung Thượng Sĩ) – Thiền Sư Việt Nam – HT Thích Thanh Từ.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7350)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3512)
Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúatác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển
(Xem: 4449)
Thế gian ly sanh diệt. Du như hư không hoa. Trí bất đắc hữu vô. Nhi hưng đại bi tâm.
(Xem: 3698)
Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng...
(Xem: 3372)
Nguyên bản: View Yourself As Like an Illusion. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 4264)
Vấn đề này tôi nghĩ chư tăng không ai không quan tâm. Tại sao tu Phật lấy giải thoát làm cốt lõi?
(Xem: 4120)
Gần đây, tại Dharamsala (miền Bắc Ấn Độ), Đức Dalai Lama đã có cuộc trò chuyện trực tuyến với TS.Anupam Sibal, Chủ tịch Hiệp hội Bác sĩ gốc Ấn Toàn cầu
(Xem: 3665)
Fyodor Dostoevsky sinh ra vào ngày 11 tháng 11 năm 1821 tại Moscow, nước Nga. Ông là người con thứ hai của Bác Sĩ Mikhail Dostoevsky và phu nhân Maria Dostoevskaya.
(Xem: 3583)
Đối chiếu học (Comparative Study) không phải là một vấn đề mới mẻ. Mặc dù tính cách cần yếu của nó trong các khảo cứu về Đông phương học
(Xem: 4012)
Xã hội hiện nay dù con người đến gần với những tiện ích vật chất nhưng mặt trái là phải đối mặt hàng loạt vấn đề xã hội ...
(Xem: 12226)
Theo lời Phật dạy, giữa người với người luôn tồn tại một mối nhân duyên từ kiếp trước, vì vậy, trong cuộc sống này, khi ta gặp và yêu thương...
(Xem: 4045)
Cầu siêu, cầu nguyện cho người chết sinh về cõi lành là một Phật sự phổ biến trong Phật giáo.
(Xem: 4370)
Giống như ảo ảnh của nhà huyển thuật, những giấc mơvà mặt trăng phản chiếu trong nước,
(Xem: 4450)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó...
(Xem: 4595)
Thầy Soṇa (Tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức) vốn là một nhạc sĩ. Khi chưa xuất gia, thầy chơi đàn cầm rất giỏi.
(Xem: 4684)
Đúng vậy, cuộc đời không thể yên ổn như mình tưởng, dòng sông nào cũng có lúc dậy sóng, không thể nào bình lặng mãi như mặt nước mùa Thu.
(Xem: 3930)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng.
(Xem: 4183)
Trong cõi ta bà trần lao này, các pháp biến đổi chuyển hóa luôn luôn chứ không phải ở yên hay cố định mãi được.
(Xem: 4047)
Có thể nói rằng, thiền học Việt Nam Khơi nguồn từ Ngài Khương Tăng Hội với cốt tủy là thiền quán niệm hơi thở qua tác phẩm ...
(Xem: 4215)
Bình anhạnh phúc là niềm mong ước của cả nhân loại, không phân biệt màu da, tôn giáo.
(Xem: 4371)
''Mùa mưa ta ở đây, đông, hạ cũng ở đây, người ngu tâm tưởng vậy, không tự giác hiểm nguy.''
(Xem: 3790)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng.
(Xem: 4866)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen
(Xem: 4231)
Thiền sư nói với tên trộm: “Ngươi muốn trộm bát vàng của ta, ta muốn trộm trái tim của ngươi”
(Xem: 3376)
Báo Chánh Pháp - Chư Tăng Ni và Phật tử GHPGVNTNHK
(Xem: 3635)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm...
(Xem: 3696)
Thành Phậtthành tựu đức đại từ đại bi do đã khai mở hoàn toàn Phật tánh:
(Xem: 4211)
Hôm nay con đang ở tại nơi đây và ngay lúc bây giờ, con viết lá thư này thành kính dâng lên đức Thế Tôn.
(Xem: 3758)
Người con Phật phải tin tưởng sự tái sanh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 4275)
Chiêm nghiệm thực tế từ những câu chuyện nhỏ được kể trong kinh luận, là việc khá lý thú với tôi.
(Xem: 4328)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra.
(Xem: 3166)
“Vì cái này có nên cái kia có. Vì cái này không nên cái kia không. Vì cái này sinh nên cái kia sinh. Vì cái này diệt nên cái kia diệt.”
(Xem: 4309)
Khi nói đến đạo Phật thì hầu hết mọi người đều nghĩ đến tính từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha… nhưng đạo Phật còn có một tính chất rất tuyệt vời
(Xem: 5068)
thế gian nầy, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi mới trừ được hận thù. Đó là định luật của ngàn xưa
(Xem: 3996)
“Không có tôn giáo nào không có chân lý.” Đó là câu mà nhiều người đề cập tới, khi nói đến chân lý.
(Xem: 4453)
Thế giới trong thế kỷ 21: Nhìn qua lăng kính Phật giáo - Bài giảng của Tiến Sĩ Lancaster tại trường Đại Học University of the West, California vào tháng 10/2020.
(Xem: 4277)
Trong kinh Nikaya, Đức Phật cũng không bao giờ tán thán sự hiện hữu, bởi vì còn hiện hữu, còn tái sinh là còn Khổ
(Xem: 3835)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu...
(Xem: 5219)
Hầu hết chúng ta là người phàm nên mắt thường không thể nhận biết các bậc Thánh, nhất là bậc Thánh A-la-hán “lậu hoặc đã đoạn tận
(Xem: 4192)
Đạo Phật đồng hành với dân tộc đã hơn hai ngàn năm nay. Người Việt tiếp xúc với đạo Phật hầu như đủ các trường phái, pháp môn
(Xem: 4185)
Đối chiếu học (Comparative Study) không phải là một vấn đề mới mẻ. Mặc dù tính cách cần yếu của nó trong các khảo cứu về Đông phương học...
(Xem: 4010)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu...
(Xem: 4105)
Khi chúng ta đã hoàn tất sự phân tích với sự quan tâm đến chính mình, tìm kiếm cho một sự tồn tại cố hữu của “cái tôi”,
(Xem: 4358)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu.
(Xem: 4689)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 4277)
Thiền sư thường huấn luyện trò Tự mình diễn tả ý cho rõ ràng. Có hai thiền viện trong làng Mỗi nơi đều có một chàng thiền sinh
(Xem: 4109)
Từ thời thơ ấu, chúng ta đã biết thiện ác, tốt xấu là gì. Ăn cơm vung vãi đầy bàn là xấu, dơ dáy không tắm rửa là xấu, viết chữ cẩu thả là xấu, ăn nói thô tục chửi thề là xấu…Và ngược lại là tốt.
(Xem: 4508)
Người Phật tử khi đã xác quyết với Tứ bất hoại tín, ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin vào thánh giới thì dù thế sự có thế nào thì ...
(Xem: 4639)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde
(Xem: 3944)
Biển là không gian bao la, rộng lớn vô cùng, chiếm đến bảy phần mười của diện tích bề mặt quả đất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant