Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

08 Tháng Giêng 202119:42(Xem: 3963)
Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thích Trung Định

cam tho 2

Có thể nói rằng, thiền học Việt Nam Khơi nguồn từ Ngài Khương Tăng Hội với cốt tủy là thiền quán niệm hơi thở qua tác phẩm “An Ban Thủ Ý Kinh”, sau đó hưng thịnh ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... Thiền học thời Trần bắt đầu từ Trần Thái Tông, nhưng Thiền học Yên Tử thật sự phát triển và hưng thịnh vào thời Trần Nhân Tông.

Vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 năm Nguyên Phong thứ VIII (1258) là con trưởng của Trần Thái Tông và Nguyên Thành Thiên Cẩm hoàng hậu. Lúc sanh tiền Trần Nhân Tôngtướng mạo khác thường “nhan sắc như vàng, thần khí tươi sáng”.

Thuở nhỏ, Trần Nhân Tông được sự chăm sóc đầy đủ với tình thương yêu của phụ vương và hoàng hậu, đặc biệtsự giáo huấn kỹ càng để chuẩn bị kế tục sự nghiệp quốc gia. Ngài rất thông minh, hiếu học và thông suốt ngoại điển lẫn nội điển (kinh Phật) lại được sự giáo dục cởi mở. Có những lúc Ngài mời các vị thiền sư đến để cùng giảng cứu thiền học và Ngài đã từng tham cứu thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Do đó Trần Nhân Tông sớm nhập cốt tuỷ của thiền học.

Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng, Ngài đã từng là tổng chỉ huy cuộc chiến vệ quốc chống quân Nguyên Mông. Hơn thế nữa, Ngài còn là biểu tượng cho các khối đại đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm và là người có nhiều biện pháp thu phục lòng người và nhiếp phục đối phương nhằm đem đến những lợi ích to lớn cho dân tộc. Nhiều danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão ... đã xuất hiện trong thời kỳ này. Nhờ tài thao lược của họ mà nhà Trần đã và có nhiều chiến công hiển hách. Sự thành công này có thể nói là nhờ sự nhìn nhận và sử dụng nhân tài của Trần Nhân Tông. Qua đây ta thấy, Trần Nhân Tông là nhà quân sự, nhà chính trị, văn hoá, tư tưởng đại tài. Đặc biệt, về lĩnh vực tôn giáo, có thể ghi nhận công đức của Ngài trong việc xây dựng Thiền tông Phật giáo. Chính Ngài là người đã thắp sáng ngọn đuốc Thiền tông và là Sơ Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài đã chủ trương thống nhất các thiền phái Việt Nam trong trong vườn thiền người Việt. Đó là một sắc thái Thiền mang đậm nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam với tinh thần tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng hưng thịnh xứ sở bằng từ bi, trí tuệđạo đức của Phật giáo.

Trần Nhân Tông được thân cận học hỏi giáo lý trí tuệ từ bậc thạc đức Tuệ Trung, là nhân duyên lớn, giúp cho Ngài thâm nhập sâu lòng đất giải thoát. Tuệ Sĩ như chắp thêm cánh đạo cho Điều Ngự đi vào vùng trời giải thoát bao la. Một thể cách giải thoát thực sự thực hiện trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội rất thiết thực, nhân bảntrí tuệ. Đây là một nhân duyên cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, mang nét đặc thù của dân tộc Việt Nam, đồng thời mang tinh thần tuỳ duyên “Sống đời vui đạo”. Chính tinh thần “tùy duyên bất biến” là chiếc chìa khoá để mở tung cánh cửa thiền học Việt Nam mà Ngài là vị sơ tổ của Trúc Lâm Yên Tử. Sự chứng đắc của Tổ bằng con đường thực nghiệm tại núi Yên Tử, nơi đây Ngài đã cảm nhận được bản chất vô thường, vô ngã của thân ngủ uẩn qua những lần hạ sơn, hay phương pháp hành Tứ Niệm Xứ (quán thân bất tịnh, tâm vô thường, pháp vô ngã, thọ thì khổ) ngay trên thân Ngài. Chính giây phút này Ngài buông bỏ mọi vọng niệm, cấu uế trần tục để đạt thanh tịnh, an trú chánh niệm, lặng lẽ với núi rừng Yên Tử. Ngay đây, Ngài đã tuôn trào những bài thơ, kệ mang tính thiết thực của con Người chứng đắc. Trước buổi lễ khai đường ở Sùng Nghiêm Điều Ngự Giác Hoàng đã mở bài kệ:

“Thân như hơi thở qua buồng phổi

Kiếp tựa mây luồng đỉnh núi xa

Chim quyên đề đoạn nguyệt như trú

Đâu phải mùa xuân để luống qua”[1]

Đây là bài kệ cảnh tỉnh cho hàng môn đệ về sự vô thường và cũng là sự kinh nghiệm của Ngài đã trãi qua trên tấm thân tứ đại, đời sống của con người chỉ qua hơi thở, nó rất mong manh và cũng rất nhanh chóng trôi qua như gió thổi mây bay, mây bay có bao giờ dừng lại... Cũng tợ như cuộc đời nó luôn chuyển biến từ sanh, bệnh, lão, tử. “Mây bay gió thổi” là chỉ cho hiện tượng của con người luôn thay đổi biến dịch. Nhưng trong sự vô thường luôn chứa trọn “một mùa xuân” hay “nhất chi mai” ấy chính là tánh giác vốn tĩnh lặng của mỗi chúng sanh, nó rất vi diệu và nhiệm mầu nhưng chúng ta không biết tận hưởng cái giá trị vô ngần ấy.

Từ sở chứng đắc trong cuộc đời Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu hiện mức độ uyên áo khác nhau qua thái độ sống, cách hành xử đầy khoan dung, nhân bảntrí tuệ. Lúc ở ngôi vị, Ngài là người yêu nước “thân dân” đầy trách nhiệmthể hiện tốt đẹp sự đoàn kết của dân tộc; lúc làm Thái Thượng Hoàng Ngài luôn dõi theo từng biến động của đất nước xã tắc mà không bao giờ phó mặc dân tộc cho vị vua đương trị vì. Lúc Thiền sư ở chốn sơn môn Ngài đã tự giác, giác tha, đã hoàn thành xã hội có một nền tảng đạo đức, nhân bản, và có cả một Giáo hội Phật giáo Việt Namkỷ cương, thống nhất tư tưởng và tổ chức hệ phái.

Đặc biệt Ngài đã xây dựng một nền tảng hoà bình lâu dài và mở mang bờ cõi, đó là việc thiết lập liên bang hữu nghị với Chiêm Thành. Suốt cuộc đời của Ngài là cuộc sống tự nhiên, tự tại vô ngã vị thadung dị. Ngài bảo:

“Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không

Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng

Diện mục xuân nay từng khám phá

Thiền toạ an nhiên ngắm rụng hồng”[2]

Qua bài thơ ta như hiểu được về Ngài, lúc nhỏ Ngài chưa hiểu “sắc, không” nên mỗi độ xuân về thì thấy lòng nở hoa như bao người khác, nhưng khi đã thấy chúa xuân (bản lai diện mục) của chính mình thì không còn vui khi thấy hoa nở và buồn khi thấy hoa tàn, Ngài Điều Ngự đã tự tại trước mọi cảnh, an nhiên trước sắc trần, rất tự chủ và bình thản trước cuộc đời, dù đời có phiền toái hay rộn ràng, chính lúc ấy Ngài lắng lòng tìm lại sự an tĩnh của tâm .

“Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính

Nữa ngày rồi tự tại thân tâm”

Cõi lòng được thanh tịnh thì mọi thị phi, nhân ngã, chấp thủ đều lắng, chính đó là cõi tịnh độ hay cõi A Di Đà. Bởi vì tịnh độ ngay trong ta, tịnh độ không đâu xa, đâu phải nhọc công đi tìm tịnh độ ở phương Tây. Tịnh Độ chính là lúc “lòng rỗi” trong ta.

“Miễn được lòng rỗi

Chẳng còn pháp khác

Rèn tính lặng tính mới hầu an

Dứt niệm vọng niệm đình chẳng thác

Tột trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương

Đình hết tham sân mới lão lòng đầy viên giác

Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi tây phương

Di Đà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc

Xét thân tâm, luyện tĩnh thức, há rằng mong quả báo phô khoa

Cầm giới hạn, địch vô thường, nào có sá câu danh bản giác?”[3]

Bài kệ là sự minh xác về con đường cho mỗi người, ta chính là chủ nhân cho ta về cực lạc hay chốn Di Đà hay mãi mãi lang thang cầu xin an lạc ở một kẻ khác. Chính ta có thể làm cho ta an lạc mà không nương vào bất cứ một ai khác. Kinh Duy Ma Cật dạy: “Tâm tịnh tức tịnh độ”. Như vậy cần gì phải hỏi đường đến phương tây. Với trí huệ siêu việt Ngài đã khẳng định trong mỗi con người đều có đủ thánh-phàm, chúng ta hãy khéo léo lựa chọn. Điều Ngự Giác Hoàng đã đưa chúng ta khỏi mọi phân biệt, gạt bỏ mọi thuyết đối lập giữa Niết Bànđịa ngục, giữa ta và người, bởi vì các pháp vốn duyên sinh, không có một pháp nào độc lậptồn tại. Ngài tự tại sống trong cuộc sống bình thường, và đã chứng ngộ “thực tướng” của các pháp, cho nên không còn vướng kẹt vào các quan điểm có và không, hữu và ngã, tiểu và đại, bắc và nam Ngài cũng không còn tránh các sắc trần vì thế Ngài đã đạt “Sống đời vui đạo”.

“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi tìm kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”[4]

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã được kế thừa tinh hoa của các dòng thiền trong quá khứ, nhưng qua đó Điều Ngự Giác Hoàng đã chắt lọc, đúc kết cùng với những kinh nghiệm thời đại Ngài đã tạo ra một diện mạo mới mang nét đặc sắc thiền học Việt Nam.

Tư tưởng “sống đời vui đạo” của sơ tổ Trúc Lâmcuộc đời Thiền, thiền chính là nắm bắt những sinh hoạt trong thực tế như ăn cơm, uống nước, mặc áo... đều là suối nguồn của Thiền. Tất cả đều là nguyên tắc tu đạo của Trần Nhân Tông. “Sống đời vui đạo” là một tinh thần tuỳ duyên nhưng rất thực tế trong cuộc sống, đây là một phương pháp sống có chánh niệm, tỉnh thức, là sự trở về nội tâm, là sự dừng lại của mọi vọng tưởng tham ái chấp thủ và là sự vắng lặng của mọi thị phi nhân ngã...

Thiền học Việt Nam không giới hạn ở đối tượng nào hay hoàn cảnh nào ở đâu cũng có thể thực hành thiền, miễn là hành giả biết thích nghi, ứng hợp với điều kiện với hoàn cảnh xảy ra chung quanh mình. Tuỳ duyên còn có nghĩa rằng hãy bằng lòng với cuộc sống và những gì mình đang có, mà không tham cầu hướng ngoại hay chấp thủ. Với tinh thần như vậy thì ngay trong hiện tại ta đã bắt gặp được những suối nguồn hạnh phúc thật sự. Sống bình thường “đói ăn, khát uống, mệt ngủ...” cũng nói lên tinh thần “tri túc” hay biết vừa đủ, tự mình biết đủ, khi đói thì ăn, khát thì uống, ăn uống trong chánh niệm tỉnh giác mà không mong cầu ăn thứ gì ngon hơn, hợp khẩu vị hơn. “Tùy duyên” hay giác tỉnh chính là con đường an trú trong hiện tại, mà không ước vọng tương lai hay nuối tiếc quá khứ, mà tâm biết cái “đang là” ở trước mắt. Cho nên cuộc sống tuỳ duyên giúp chúng ta không còn vướng mắc màu sắc hay cảnh trần trong cuộc đời. Tuỳ duyên đã hé mở cho chúng ta một lối nhìn, là hãy sống hết mình, sống có trách nhiệm, có bổn phận, sống có ý nghĩa của một con người trong xã hội, chứ không quay lưng hay thờ ơ với cuộc sống. Bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác” chân lý giải thoát ở ngay trong cuộc đời này mà không phải ở đâu xa.

Tinh thần “Cư trần lạc đạo” không phải là con đường mặc tưởng, trầm tư mà phải đi bằng đôi chân vô trú, vô niệm để vào cuộc đời phục vụ nhân sinh, vũ trụ với ý thức vô ngã, hành động vô chấp và tấm lòng vị tha.

Qua đây chúng ta thấy cuộc đời của Ngài rất tự nhiên, tự tại và rất thích hợp với xã hội bấy giờ, đó là một lối sống hướng thượng, hướng chính mình, bằng nỗ lực của chính mình, bằng sự trở về của chính mình (gia trung hữu bảo hưu tầm mích) mà không một đấng thần linh nào cho mình được giải thoát. Đây chính là nói lên tinh thần tự độ của Phật Giáo, vừa biểu hiện tinh thần tự cường của dân tộc. Giác ngộ hạnh phúc an lạc nằm ngay nơi chính mình, nơi thái độ sống hay cách nhìn đời của mình, nơi ấy không còn khởi tham sân si, chấp thủ hay không còn chấp thủ đối với mọi cảnh. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử hay chính là tư tưởng của Trần Nhân Tông.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là cái nhìn về thực tại đang là trong cuộc sống, cảnh thế nào thì nhìn thế ấy, nhìn với tinh thần vô trú, vô niệm, vô phân biệt. Vô tâm ở đây đồng nghĩa với tinh thần "ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm" tức là chỗ nhất thiết xứ vô tâm, mọi chỗ mọi nơi, lúc đi lúc đứng, nằm ngồi đều thường trú tự do, thân tâm thanh tịnh không một niệm nhiễm trước sắc trần. Vô tâm ở đây không phải là chạy trốn cuộc đời, hay là thờ ơ trước nỗi khổ của chúng sanh, mà phải sống hết mình, làm những gì có thể làm được để lợi lạc chúng sanh, với tinh thần vô trú - giác tỉnh.

Thiền phái Trúc Lâm là một phương pháp thiền rất phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và cũng phù hợp với lời Phật dạy về thiền Tứ Niệm Xứ. Chúng ta có thể thực hành trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) ngay trong cuộc sống với tinh thần vô trú. Các thiền sư Việt Nam không dừng lại ở một phương pháp nào cả, mà tất cả đều là đối tượng để tu tập, để hành thiền dù bất cứ ở đâu và hoàn cảnh nào đều có thể thực hành như quán hơi thở, nhìn sự vô thường qua chiếc thân ngũ uẩn hay mây ngàn trăng gió.

“Chim hót nhởn nhơ hoa liễu dày

Bóng thềm nhà vẻ mây chiều bay

Chuyện đời khách đến thôi không hỏi

Cùng tựa lan can ngắm núi mây”[5]

Đây là cảnh rất thực của thiên nhiên có chim hót hoa đong đưa, có bóng thềm nhà và cả mây chiều, có khách đến nhưng không hỏi mà chỉ tựa lan can để ngắm núi cùng mây. Tất cả cảnh vật, người như hoà quyện vào nhau. Thi sĩ đang nhìn cảnh đẹp của thiên nhiên trời đất đang yên tĩnh, sự yên lặng quá khiến người đến nhưng chẳng mở lời hỏi mà cùng tất cả đều hoà nhập vào không gian tĩnh lặng. Đây là triết lý vô ngôn hay chính là Thiền, sự sâu lắng ấy không thể đem ngôn ngữ để diễn đạt mà chỉ có người trong cuộc mới lắng nghe và hiểu được, hay chúng ta có thể hiểu về ngài hơn khi đọc đến bài thơ “Trăng”:

“Đầy sách giường song chích bóng đèn

Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm

Tiếng chày thức dậy đâu hay biết

Hoa mộc trên cành trăng mới lên”[6]

Qua đây, chúng ta đã bắt gặp cuộc đời của vị sơ tổ quá đơn giản, và rất gần gũi với thiên nhiên. Với cảnh đêm tịch mịch Ngài như ngủ thiếp đi từ lúc nào, nhờ có tiếng chày của người trong thôn xóm đã đánh thức Ngài tỉnh dậy thì chỉ thấy bóng đèn dầu với giường đầy sách, nhìn ra sân thấy sương mùa thu đã giăng đầy, đâu đó có người đang giã gạo, và thấy trăng mới nhô lên ở cành hoa mộc, không gian tịch mịch yên lặng ấy chính là biểu tượng cho một tâm hồn trong sánghồn nhiên không một vết bẩn. Lúc ấy chính là sự bừng sáng của tuệ giác. Cuộc sống rất giản dị mộc mạc, nhưng nơi ấy dường như Ngài đã đi qua nhiều lần và Ngài đã cảm thông với cuộc sống của người dân ở đó như Ngài đã từng lấy chiếc áo bào đắp cho người tù lạnh, xuất phát từ lòng thương yêu chúng sanh cao cả cho nên khi xuất gia cuộc sống của Ngài càng đơn giản hơn.

“Ăn rau ăn trái miệng chẳng hiềm đắng

Vận giấy vận sồi thân ngại chi đen bạc”

Như vậy, Thiền học đã trãi qua nhiều thời đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, thời nào cũng có nhiều vị thiền sư lỗi lạc ra tay cứu đời, dấn thân vào xã hội để đem lại sự thái bình cho dân tộc bằng sức mạnh trí tuệ, bằng tinh thần vô ngã. Các thiền sư Việt Nam đã khoác lên vai mình ba đức tính: Bi - Trí - Dũng để tung hoành ngang dọc khi trực tiếp hay gián tiếp vào các triều đại cố vấn nhà vua để cứu đất nước khỏi ách nô lệ của giặc đem lại nền độc lập cho quốc gia. Tuy xông xáo tung hoành, nhưng từ sâu thẳm các thiền sư vẫn an nhiên bất động trước các đối tượng sắc trần danh lợi. Thấy cuộc đời nô lệ của dân tộc là một đêm dài đau khổ, ở đó chúng sanh đang kêu gào thảm thiết. Trước thế sự các thiền sư Việt Nam không đành khoanh tay đứng nhìn, cũng không thể toạ thiền ở chốn sơn môn mà lấy cuộc đời làm môi trường thiết yếu cho sự hành thiền và thực hành lý tưởng lợi tha. Vốn biết chiến tranh là mất mát, là tổn thương. Thế nhưng chỉ có con đường duy nhất là phải kháng chiến để bảo vệ đất nước và đem lại sự thanh bình cho dân tộc. Nếu không kháng chiến thì giang sơn Đại Việt mãi mãi đi vào bóng tối của giặc phương bắc và mãi mãi là người nô lệ. Vì đại nghĩa, vì sự còn mất của đất nước các thiền sư Việt Nam đã dũng cảm chống lại quân giặc, phù vua giúp nước.

Đặc điểm của Thiền tông Việt Namtinh thần vô ngã vị tha. Đây là một tinh thần tiêu biểu của Phật giáo, là mục đích, đồng thờinguyên nhânphương tiện chi phối mọi hoạt động thiết thực. Vô ngã, vị tha là hai yếu tố có quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau, tuỳ thuộc vào nhau. Đặc biệt là thời Lý - Trần, một giai đoạn có nhiều thử thách, đối đầu với quân xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, để đạt mục đích giữ gìn độc lập cho đất nước đem lại hạnh phúc cho dân tộc, tinh thần này càng được bộc lộ rõ hơn, là xóa bỏ mọi rạn nứt, sự hiềm khích giữa vua tôi đều được hóa giải để tập trung vào mục đích chung vì tổ quốc Đại Việt, vì sự an lạc của dân tộc. Tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông đã nói lên được tinh thần “Tuỳ duyên bất biến”, Ngài đã dấn thân vào cuộc đời để hoá độ. Hậu thế cảm nhận được một tấm lòng thanh khiết, “Hoà quang đồng trần” nhưng không bị nhuốm bụi trần, và “Cư trần lạc đạo” giữa cuộc đời đầy biến động này.

Ghi chú:

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nxb. Văn Hóa Hà Nội, 1994, tr. 374.

[2] Sđd, tr. tr. 391.

[3] Sđd, tr. 386-387.

[4] Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. TP HCM, 2000, tr. 248.

[5] Sđd, tr. 296.

[6] Sđd, tr. 283.

Tạp chi Văn hóa Phật giáo số, 358.

Thích Trung Định

  • Thiền học Việt Nam
  • Trần Nhân Tông
Tạo bài viết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2754)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2528)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2361)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2322)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2216)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2569)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3070)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2504)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2804)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3005)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2480)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2752)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant