Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

08 Tháng Giêng 202119:42(Xem: 4046)
Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thích Trung Định

cam tho 2

Có thể nói rằng, thiền học Việt Nam Khơi nguồn từ Ngài Khương Tăng Hội với cốt tủy là thiền quán niệm hơi thở qua tác phẩm “An Ban Thủ Ý Kinh”, sau đó hưng thịnh ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... Thiền học thời Trần bắt đầu từ Trần Thái Tông, nhưng Thiền học Yên Tử thật sự phát triển và hưng thịnh vào thời Trần Nhân Tông.

Vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 năm Nguyên Phong thứ VIII (1258) là con trưởng của Trần Thái Tông và Nguyên Thành Thiên Cẩm hoàng hậu. Lúc sanh tiền Trần Nhân Tôngtướng mạo khác thường “nhan sắc như vàng, thần khí tươi sáng”.

Thuở nhỏ, Trần Nhân Tông được sự chăm sóc đầy đủ với tình thương yêu của phụ vương và hoàng hậu, đặc biệtsự giáo huấn kỹ càng để chuẩn bị kế tục sự nghiệp quốc gia. Ngài rất thông minh, hiếu học và thông suốt ngoại điển lẫn nội điển (kinh Phật) lại được sự giáo dục cởi mở. Có những lúc Ngài mời các vị thiền sư đến để cùng giảng cứu thiền học và Ngài đã từng tham cứu thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Do đó Trần Nhân Tông sớm nhập cốt tuỷ của thiền học.

Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng, Ngài đã từng là tổng chỉ huy cuộc chiến vệ quốc chống quân Nguyên Mông. Hơn thế nữa, Ngài còn là biểu tượng cho các khối đại đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm và là người có nhiều biện pháp thu phục lòng người và nhiếp phục đối phương nhằm đem đến những lợi ích to lớn cho dân tộc. Nhiều danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão ... đã xuất hiện trong thời kỳ này. Nhờ tài thao lược của họ mà nhà Trần đã và có nhiều chiến công hiển hách. Sự thành công này có thể nói là nhờ sự nhìn nhận và sử dụng nhân tài của Trần Nhân Tông. Qua đây ta thấy, Trần Nhân Tông là nhà quân sự, nhà chính trị, văn hoá, tư tưởng đại tài. Đặc biệt, về lĩnh vực tôn giáo, có thể ghi nhận công đức của Ngài trong việc xây dựng Thiền tông Phật giáo. Chính Ngài là người đã thắp sáng ngọn đuốc Thiền tông và là Sơ Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài đã chủ trương thống nhất các thiền phái Việt Nam trong trong vườn thiền người Việt. Đó là một sắc thái Thiền mang đậm nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam với tinh thần tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng hưng thịnh xứ sở bằng từ bi, trí tuệđạo đức của Phật giáo.

Trần Nhân Tông được thân cận học hỏi giáo lý trí tuệ từ bậc thạc đức Tuệ Trung, là nhân duyên lớn, giúp cho Ngài thâm nhập sâu lòng đất giải thoát. Tuệ Sĩ như chắp thêm cánh đạo cho Điều Ngự đi vào vùng trời giải thoát bao la. Một thể cách giải thoát thực sự thực hiện trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội rất thiết thực, nhân bảntrí tuệ. Đây là một nhân duyên cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, mang nét đặc thù của dân tộc Việt Nam, đồng thời mang tinh thần tuỳ duyên “Sống đời vui đạo”. Chính tinh thần “tùy duyên bất biến” là chiếc chìa khoá để mở tung cánh cửa thiền học Việt Nam mà Ngài là vị sơ tổ của Trúc Lâm Yên Tử. Sự chứng đắc của Tổ bằng con đường thực nghiệm tại núi Yên Tử, nơi đây Ngài đã cảm nhận được bản chất vô thường, vô ngã của thân ngủ uẩn qua những lần hạ sơn, hay phương pháp hành Tứ Niệm Xứ (quán thân bất tịnh, tâm vô thường, pháp vô ngã, thọ thì khổ) ngay trên thân Ngài. Chính giây phút này Ngài buông bỏ mọi vọng niệm, cấu uế trần tục để đạt thanh tịnh, an trú chánh niệm, lặng lẽ với núi rừng Yên Tử. Ngay đây, Ngài đã tuôn trào những bài thơ, kệ mang tính thiết thực của con Người chứng đắc. Trước buổi lễ khai đường ở Sùng Nghiêm Điều Ngự Giác Hoàng đã mở bài kệ:

“Thân như hơi thở qua buồng phổi

Kiếp tựa mây luồng đỉnh núi xa

Chim quyên đề đoạn nguyệt như trú

Đâu phải mùa xuân để luống qua”[1]

Đây là bài kệ cảnh tỉnh cho hàng môn đệ về sự vô thường và cũng là sự kinh nghiệm của Ngài đã trãi qua trên tấm thân tứ đại, đời sống của con người chỉ qua hơi thở, nó rất mong manh và cũng rất nhanh chóng trôi qua như gió thổi mây bay, mây bay có bao giờ dừng lại... Cũng tợ như cuộc đời nó luôn chuyển biến từ sanh, bệnh, lão, tử. “Mây bay gió thổi” là chỉ cho hiện tượng của con người luôn thay đổi biến dịch. Nhưng trong sự vô thường luôn chứa trọn “một mùa xuân” hay “nhất chi mai” ấy chính là tánh giác vốn tĩnh lặng của mỗi chúng sanh, nó rất vi diệu và nhiệm mầu nhưng chúng ta không biết tận hưởng cái giá trị vô ngần ấy.

Từ sở chứng đắc trong cuộc đời Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu hiện mức độ uyên áo khác nhau qua thái độ sống, cách hành xử đầy khoan dung, nhân bảntrí tuệ. Lúc ở ngôi vị, Ngài là người yêu nước “thân dân” đầy trách nhiệmthể hiện tốt đẹp sự đoàn kết của dân tộc; lúc làm Thái Thượng Hoàng Ngài luôn dõi theo từng biến động của đất nước xã tắc mà không bao giờ phó mặc dân tộc cho vị vua đương trị vì. Lúc Thiền sư ở chốn sơn môn Ngài đã tự giác, giác tha, đã hoàn thành xã hội có một nền tảng đạo đức, nhân bản, và có cả một Giáo hội Phật giáo Việt Namkỷ cương, thống nhất tư tưởng và tổ chức hệ phái.

Đặc biệt Ngài đã xây dựng một nền tảng hoà bình lâu dài và mở mang bờ cõi, đó là việc thiết lập liên bang hữu nghị với Chiêm Thành. Suốt cuộc đời của Ngài là cuộc sống tự nhiên, tự tại vô ngã vị thadung dị. Ngài bảo:

“Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không

Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng

Diện mục xuân nay từng khám phá

Thiền toạ an nhiên ngắm rụng hồng”[2]

Qua bài thơ ta như hiểu được về Ngài, lúc nhỏ Ngài chưa hiểu “sắc, không” nên mỗi độ xuân về thì thấy lòng nở hoa như bao người khác, nhưng khi đã thấy chúa xuân (bản lai diện mục) của chính mình thì không còn vui khi thấy hoa nở và buồn khi thấy hoa tàn, Ngài Điều Ngự đã tự tại trước mọi cảnh, an nhiên trước sắc trần, rất tự chủ và bình thản trước cuộc đời, dù đời có phiền toái hay rộn ràng, chính lúc ấy Ngài lắng lòng tìm lại sự an tĩnh của tâm .

“Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính

Nữa ngày rồi tự tại thân tâm”

Cõi lòng được thanh tịnh thì mọi thị phi, nhân ngã, chấp thủ đều lắng, chính đó là cõi tịnh độ hay cõi A Di Đà. Bởi vì tịnh độ ngay trong ta, tịnh độ không đâu xa, đâu phải nhọc công đi tìm tịnh độ ở phương Tây. Tịnh Độ chính là lúc “lòng rỗi” trong ta.

“Miễn được lòng rỗi

Chẳng còn pháp khác

Rèn tính lặng tính mới hầu an

Dứt niệm vọng niệm đình chẳng thác

Tột trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương

Đình hết tham sân mới lão lòng đầy viên giác

Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi tây phương

Di Đà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc

Xét thân tâm, luyện tĩnh thức, há rằng mong quả báo phô khoa

Cầm giới hạn, địch vô thường, nào có sá câu danh bản giác?”[3]

Bài kệ là sự minh xác về con đường cho mỗi người, ta chính là chủ nhân cho ta về cực lạc hay chốn Di Đà hay mãi mãi lang thang cầu xin an lạc ở một kẻ khác. Chính ta có thể làm cho ta an lạc mà không nương vào bất cứ một ai khác. Kinh Duy Ma Cật dạy: “Tâm tịnh tức tịnh độ”. Như vậy cần gì phải hỏi đường đến phương tây. Với trí huệ siêu việt Ngài đã khẳng định trong mỗi con người đều có đủ thánh-phàm, chúng ta hãy khéo léo lựa chọn. Điều Ngự Giác Hoàng đã đưa chúng ta khỏi mọi phân biệt, gạt bỏ mọi thuyết đối lập giữa Niết Bànđịa ngục, giữa ta và người, bởi vì các pháp vốn duyên sinh, không có một pháp nào độc lậptồn tại. Ngài tự tại sống trong cuộc sống bình thường, và đã chứng ngộ “thực tướng” của các pháp, cho nên không còn vướng kẹt vào các quan điểm có và không, hữu và ngã, tiểu và đại, bắc và nam Ngài cũng không còn tránh các sắc trần vì thế Ngài đã đạt “Sống đời vui đạo”.

“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi tìm kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”[4]

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã được kế thừa tinh hoa của các dòng thiền trong quá khứ, nhưng qua đó Điều Ngự Giác Hoàng đã chắt lọc, đúc kết cùng với những kinh nghiệm thời đại Ngài đã tạo ra một diện mạo mới mang nét đặc sắc thiền học Việt Nam.

Tư tưởng “sống đời vui đạo” của sơ tổ Trúc Lâmcuộc đời Thiền, thiền chính là nắm bắt những sinh hoạt trong thực tế như ăn cơm, uống nước, mặc áo... đều là suối nguồn của Thiền. Tất cả đều là nguyên tắc tu đạo của Trần Nhân Tông. “Sống đời vui đạo” là một tinh thần tuỳ duyên nhưng rất thực tế trong cuộc sống, đây là một phương pháp sống có chánh niệm, tỉnh thức, là sự trở về nội tâm, là sự dừng lại của mọi vọng tưởng tham ái chấp thủ và là sự vắng lặng của mọi thị phi nhân ngã...

Thiền học Việt Nam không giới hạn ở đối tượng nào hay hoàn cảnh nào ở đâu cũng có thể thực hành thiền, miễn là hành giả biết thích nghi, ứng hợp với điều kiện với hoàn cảnh xảy ra chung quanh mình. Tuỳ duyên còn có nghĩa rằng hãy bằng lòng với cuộc sống và những gì mình đang có, mà không tham cầu hướng ngoại hay chấp thủ. Với tinh thần như vậy thì ngay trong hiện tại ta đã bắt gặp được những suối nguồn hạnh phúc thật sự. Sống bình thường “đói ăn, khát uống, mệt ngủ...” cũng nói lên tinh thần “tri túc” hay biết vừa đủ, tự mình biết đủ, khi đói thì ăn, khát thì uống, ăn uống trong chánh niệm tỉnh giác mà không mong cầu ăn thứ gì ngon hơn, hợp khẩu vị hơn. “Tùy duyên” hay giác tỉnh chính là con đường an trú trong hiện tại, mà không ước vọng tương lai hay nuối tiếc quá khứ, mà tâm biết cái “đang là” ở trước mắt. Cho nên cuộc sống tuỳ duyên giúp chúng ta không còn vướng mắc màu sắc hay cảnh trần trong cuộc đời. Tuỳ duyên đã hé mở cho chúng ta một lối nhìn, là hãy sống hết mình, sống có trách nhiệm, có bổn phận, sống có ý nghĩa của một con người trong xã hội, chứ không quay lưng hay thờ ơ với cuộc sống. Bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác” chân lý giải thoát ở ngay trong cuộc đời này mà không phải ở đâu xa.

Tinh thần “Cư trần lạc đạo” không phải là con đường mặc tưởng, trầm tư mà phải đi bằng đôi chân vô trú, vô niệm để vào cuộc đời phục vụ nhân sinh, vũ trụ với ý thức vô ngã, hành động vô chấp và tấm lòng vị tha.

Qua đây chúng ta thấy cuộc đời của Ngài rất tự nhiên, tự tại và rất thích hợp với xã hội bấy giờ, đó là một lối sống hướng thượng, hướng chính mình, bằng nỗ lực của chính mình, bằng sự trở về của chính mình (gia trung hữu bảo hưu tầm mích) mà không một đấng thần linh nào cho mình được giải thoát. Đây chính là nói lên tinh thần tự độ của Phật Giáo, vừa biểu hiện tinh thần tự cường của dân tộc. Giác ngộ hạnh phúc an lạc nằm ngay nơi chính mình, nơi thái độ sống hay cách nhìn đời của mình, nơi ấy không còn khởi tham sân si, chấp thủ hay không còn chấp thủ đối với mọi cảnh. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử hay chính là tư tưởng của Trần Nhân Tông.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là cái nhìn về thực tại đang là trong cuộc sống, cảnh thế nào thì nhìn thế ấy, nhìn với tinh thần vô trú, vô niệm, vô phân biệt. Vô tâm ở đây đồng nghĩa với tinh thần "ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm" tức là chỗ nhất thiết xứ vô tâm, mọi chỗ mọi nơi, lúc đi lúc đứng, nằm ngồi đều thường trú tự do, thân tâm thanh tịnh không một niệm nhiễm trước sắc trần. Vô tâm ở đây không phải là chạy trốn cuộc đời, hay là thờ ơ trước nỗi khổ của chúng sanh, mà phải sống hết mình, làm những gì có thể làm được để lợi lạc chúng sanh, với tinh thần vô trú - giác tỉnh.

Thiền phái Trúc Lâm là một phương pháp thiền rất phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và cũng phù hợp với lời Phật dạy về thiền Tứ Niệm Xứ. Chúng ta có thể thực hành trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) ngay trong cuộc sống với tinh thần vô trú. Các thiền sư Việt Nam không dừng lại ở một phương pháp nào cả, mà tất cả đều là đối tượng để tu tập, để hành thiền dù bất cứ ở đâu và hoàn cảnh nào đều có thể thực hành như quán hơi thở, nhìn sự vô thường qua chiếc thân ngũ uẩn hay mây ngàn trăng gió.

“Chim hót nhởn nhơ hoa liễu dày

Bóng thềm nhà vẻ mây chiều bay

Chuyện đời khách đến thôi không hỏi

Cùng tựa lan can ngắm núi mây”[5]

Đây là cảnh rất thực của thiên nhiên có chim hót hoa đong đưa, có bóng thềm nhà và cả mây chiều, có khách đến nhưng không hỏi mà chỉ tựa lan can để ngắm núi cùng mây. Tất cả cảnh vật, người như hoà quyện vào nhau. Thi sĩ đang nhìn cảnh đẹp của thiên nhiên trời đất đang yên tĩnh, sự yên lặng quá khiến người đến nhưng chẳng mở lời hỏi mà cùng tất cả đều hoà nhập vào không gian tĩnh lặng. Đây là triết lý vô ngôn hay chính là Thiền, sự sâu lắng ấy không thể đem ngôn ngữ để diễn đạt mà chỉ có người trong cuộc mới lắng nghe và hiểu được, hay chúng ta có thể hiểu về ngài hơn khi đọc đến bài thơ “Trăng”:

“Đầy sách giường song chích bóng đèn

Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm

Tiếng chày thức dậy đâu hay biết

Hoa mộc trên cành trăng mới lên”[6]

Qua đây, chúng ta đã bắt gặp cuộc đời của vị sơ tổ quá đơn giản, và rất gần gũi với thiên nhiên. Với cảnh đêm tịch mịch Ngài như ngủ thiếp đi từ lúc nào, nhờ có tiếng chày của người trong thôn xóm đã đánh thức Ngài tỉnh dậy thì chỉ thấy bóng đèn dầu với giường đầy sách, nhìn ra sân thấy sương mùa thu đã giăng đầy, đâu đó có người đang giã gạo, và thấy trăng mới nhô lên ở cành hoa mộc, không gian tịch mịch yên lặng ấy chính là biểu tượng cho một tâm hồn trong sánghồn nhiên không một vết bẩn. Lúc ấy chính là sự bừng sáng của tuệ giác. Cuộc sống rất giản dị mộc mạc, nhưng nơi ấy dường như Ngài đã đi qua nhiều lần và Ngài đã cảm thông với cuộc sống của người dân ở đó như Ngài đã từng lấy chiếc áo bào đắp cho người tù lạnh, xuất phát từ lòng thương yêu chúng sanh cao cả cho nên khi xuất gia cuộc sống của Ngài càng đơn giản hơn.

“Ăn rau ăn trái miệng chẳng hiềm đắng

Vận giấy vận sồi thân ngại chi đen bạc”

Như vậy, Thiền học đã trãi qua nhiều thời đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, thời nào cũng có nhiều vị thiền sư lỗi lạc ra tay cứu đời, dấn thân vào xã hội để đem lại sự thái bình cho dân tộc bằng sức mạnh trí tuệ, bằng tinh thần vô ngã. Các thiền sư Việt Nam đã khoác lên vai mình ba đức tính: Bi - Trí - Dũng để tung hoành ngang dọc khi trực tiếp hay gián tiếp vào các triều đại cố vấn nhà vua để cứu đất nước khỏi ách nô lệ của giặc đem lại nền độc lập cho quốc gia. Tuy xông xáo tung hoành, nhưng từ sâu thẳm các thiền sư vẫn an nhiên bất động trước các đối tượng sắc trần danh lợi. Thấy cuộc đời nô lệ của dân tộc là một đêm dài đau khổ, ở đó chúng sanh đang kêu gào thảm thiết. Trước thế sự các thiền sư Việt Nam không đành khoanh tay đứng nhìn, cũng không thể toạ thiền ở chốn sơn môn mà lấy cuộc đời làm môi trường thiết yếu cho sự hành thiền và thực hành lý tưởng lợi tha. Vốn biết chiến tranh là mất mát, là tổn thương. Thế nhưng chỉ có con đường duy nhất là phải kháng chiến để bảo vệ đất nước và đem lại sự thanh bình cho dân tộc. Nếu không kháng chiến thì giang sơn Đại Việt mãi mãi đi vào bóng tối của giặc phương bắc và mãi mãi là người nô lệ. Vì đại nghĩa, vì sự còn mất của đất nước các thiền sư Việt Nam đã dũng cảm chống lại quân giặc, phù vua giúp nước.

Đặc điểm của Thiền tông Việt Namtinh thần vô ngã vị tha. Đây là một tinh thần tiêu biểu của Phật giáo, là mục đích, đồng thờinguyên nhânphương tiện chi phối mọi hoạt động thiết thực. Vô ngã, vị tha là hai yếu tố có quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau, tuỳ thuộc vào nhau. Đặc biệt là thời Lý - Trần, một giai đoạn có nhiều thử thách, đối đầu với quân xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, để đạt mục đích giữ gìn độc lập cho đất nước đem lại hạnh phúc cho dân tộc, tinh thần này càng được bộc lộ rõ hơn, là xóa bỏ mọi rạn nứt, sự hiềm khích giữa vua tôi đều được hóa giải để tập trung vào mục đích chung vì tổ quốc Đại Việt, vì sự an lạc của dân tộc. Tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông đã nói lên được tinh thần “Tuỳ duyên bất biến”, Ngài đã dấn thân vào cuộc đời để hoá độ. Hậu thế cảm nhận được một tấm lòng thanh khiết, “Hoà quang đồng trần” nhưng không bị nhuốm bụi trần, và “Cư trần lạc đạo” giữa cuộc đời đầy biến động này.

Ghi chú:

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nxb. Văn Hóa Hà Nội, 1994, tr. 374.

[2] Sđd, tr. tr. 391.

[3] Sđd, tr. 386-387.

[4] Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. TP HCM, 2000, tr. 248.

[5] Sđd, tr. 296.

[6] Sđd, tr. 283.

Tạp chi Văn hóa Phật giáo số, 358.

Thích Trung Định

  • Thiền học Việt Nam
  • Trần Nhân Tông
Tạo bài viết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1957)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1927)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1698)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2427)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1869)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1929)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1805)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2173)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2152)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2292)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1791)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2100)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1804)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1792)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1962)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1957)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1612)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1793)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2128)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1877)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2473)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1776)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1778)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1745)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2197)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2013)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2161)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1696)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2323)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1639)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1928)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1832)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1878)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1730)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2482)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2181)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2122)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1935)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2327)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1896)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1973)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2223)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1731)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1992)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2005)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2220)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1985)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1829)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1814)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1832)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant