Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vầng Trăng Lăng Già

27 Tháng Giêng 202121:05(Xem: 4317)
Vầng Trăng Lăng Già

Vầng Trăng Lăng Già

 
Vầng Trăng Lăng Già

Nhìn xuyên qua khung cửa sổ, ngoài trời lồng lộng ánh trăng xinh vừa tròn mười sáu. Ánh trăng soi rọi trên khắp cả núi đồi. Trên cả một thung lũng rộng lớn, tràn ngập ánh trăng. Tu Viện đêm nay chìm trong ánh trăng mơ. Ánh trăng huyền diệu. Bóng Sư già ngồi bên trong khung cửa hẹp tụng lời Kinh Lăng Già:

"Thế gian ly sanh diệt

Du như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Thế gian lìa khỏi sự sanh và diệt

Bởi vì nó giống hoa đốm giữa hư không.

Dùng cái trí mà thấy không có cái có và không

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Nhưng nghiệt nỗi, bên trong khung cửa hẹp còn có bóng Sư già gõ mõ tụng từng lời Kinh, nghe trầm thoát làm sao, thiền vị làm sao, thì làm sao để mà lìa bỏ sự sanh, sự diệt. Vì mỗi lời Kinh vang lên nhịp đều theo tiếng mõ, thì lúc ấy là sự sinh hiện có, rồi cũng ngay nơi lời kinh tiếng mõ ấy trôi qua về quá khứ tức diệt. Và cứ thế sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, miên man vô cùng. Ngày nào cũng vậy, nơi chốn thiền môn kia, lời kinh tụng cứ mãi sinh rồi diệt theo điệu trầm hùng an nhiên.

Ngoài kia, bầu trời thái hư, trăng vẫn sáng, cảnh vật được soi tỏ làm rạng rỡ từng lá hoa, từng phiến đá, mà có lắm khi lúc ẩn, lúc hiện, chợt tỏ chợt mờ, bao nhiêu hình ảnh diệt sinh, sinh diệt vô cùng...

"Nhất thiết pháp như huyễn

Viễn ly ư tâm thức

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm"

Dịch:

Tất cả các pháp đều như huyễn

Xa lìa từ nơi tâm thức.

Dùng cái trí mà thấy chẳng có cái có và không

Để phát khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Sư già ngồi tụng kinh như huyễn, âm ba trầm vọng lời kinh như huyễn, một chuỗi huyễn không dừng nơi đâu. Thân là sắc uẩn. Âm thanh là thanh uẩn, chợt có rồi không, chợt hiện rồi biến. Thế gian vô thường, phải xa lìa hết để phát khởi lòng cho vui, cứu khổ lớn.

Vầng trăng mười sáu dường như bất động, lững lơ giữa trời không. Nhưng trong cái bất động đã hàm tàng bao cái động, cái động đó là trăng tàn, trăng khuyết, trăng non, trăng lưỡi liềm mỏng manh như làn chỉ, làn tơ, làn sương khói. Chính vậy mà ánh trăng sáng vô cùng, vô tận, khắp trên mặt đất này.

"Viễn ly ư đoạn thường

Thế gian hằng như mộng

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Xa rời hai lãnh vực đoạn và thường

Thế gian luôn giống như mộng

Dùng cái trí mà thấy chẳng có cái có và không

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Tiếng chuông ngân dài, lời kinh thiền vị, ấm áp vô cùng. Tiếng mõ như thủa nào, từ đầu đến bây giờ vẫn thế. Đâu có dứt. Đâu có lại bắt đầu mà cho là như mộng, mà cho là đoạn thường, thôi hãy quên đi, buông bỏ đi để là đem tâm cứu khổ, làm vui cho đời, cho trần thế hôm nay an lạc. Như vầng trăng kia, vầng trăng bản môn, luôn hiện có giữa trời, không mờ! Không tỏ! Không rõ! Không mơ! Làm sáng cả đất trời dù mù khơi sương tuyết!

"Tri nhơn pháp vô ngã

Phiền não cập nhĩ diệm

Thường thanh tịnh vô tướng

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Biết người và pháp đều vô ngã

Phiền não và các sở tri chướng

Thường là thanh tịnhvô tướng

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Sư già ngồi tụng kinh vô ngã. Ánh trăng sáng ngoài kia, ngoài khung cửa hẹp vô ngã. Cả hai đều không có chủ thể. Cả hai đều do duyên sinh, hình thành nên chóng vỡ tan. Người vỡ tan. Trăng vỡ tan. Cả hai đều vỡ tan. Nhơn pháp câu không. Hãy liễu tri như thế. Liễu tri như âm thanh của lời kinh siêu thoát. Liễu tri như ánh trăng Tích môn soi sáng, tỏ rạng khắp chốn sông hồ. Dù nước đục nước trong, ánh trăng Tích môn luôn hiện hữu. Trong, đục, cạn, sâu vì chướng duyên để tâm sai biệt, chứ thật lẽ Chân nhưthường hằng, thanh tịnh, từ đó mà hưng khởi cái tâm đại bi cho đời bớt khổ, cho người thêm vui.

"Nhứt thiết vô Niết Bàn

Vô hữu Niết Bàn Phật

Vô hữu Phật Niết Bàn

Viễn ly giác sở giác

Nhược hữu nhược vô hữu

Thị nhị tất câu ly."

Dịch:

Tất cả đều không có Niết Bàn

Cũng không có Phật nhập Niết Bàn

Không có Niết Bàn của Phật

Xa rời cái giác và cái sở giác

Dù có hay dù cả không có

Hai lãnh vực ấy đều phải xa rời.

Sư già ngồi tụng kinh, lòng thành khẩn, thanh tịnh ước muốn nhập Niết Bàn và cầu mong có Niết Bàn để nhập. Nhưng khi nghe bài kệ này, lòng Sư hoát nhiên đại ngộ. Lời kinh tụng càng lớn. Tiếng mõ đánh càng to, âm vang cả chánh điện chùa, làm thức tỉnh bao lá hoa đang phơi mình dưới ánh trăng huyền diệu, tịch lặng ngoài kia. Ngộ cái ngộ của tự thân tâm mà không còn dính mắc cái giác và cái được giác như mình và người, Sư và trăng đều cách biệt, phân li, tơ hào.

"Mâu ni tịch tịnh quán

Thị tắc viễn ly sanh

Thị danh vi bất thủ

Kim thế hậu thế tịnh."

Dịch:

Quán tịch lặng như nhiên

Làm cho sự xa rời dấy khởi

Quán như vậy gọi là chẳng giữ lấy

Đời này, đời sau cả hai đều thanh tịnh.

Trăng sáng là trăng sáng. Sư già tụng kinhtụng kinh. Tụng kinh, trăng sáng phải thấy rõ không lầm. Thấy như Đại viên cảnh trí. Thấy như Bình đẳng tánh trí, chân thật bất hư. Không mộng. Không ảo. Nhất như. Tuyệt cùng.

Cửa Chánh điện chùa khép lại từ lâu. Ánh đèn bạch lạp còn cháy leo lắt, làm một không gian u tịch lặng tờ. Phật tọa trên đài sen như thường hằng, bất động. Vầng trăng Lăng Già vẫn sáng như nhiên. Tâm, vật bất phân. Phật, trăng như thị. Trăng Bản môn, Tích môn vẫn là trăng. Phật pháp thân, báo thân vẫn là Phật. Phật, trăng bình đẳng chân như.

Chùa Phật Đà, ngày 27 tháng 01 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 701)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 783)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 998)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 836)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 960)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 911)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 886)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1147)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 918)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1158)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1618)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1487)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1367)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1382)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant