Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

31 Tháng Mười Hai 202118:02(Xem: 2774)
Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

 
Hoàng Phước Đại

hoa sen 1

Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt. Có sinh, phải có diệt. Diệt là chấm dứt để trở về với cát bụi, khép kín một vòng sinh lão bệnh tử. Tử là sự chết, sự kết thúc. Trong Kinh Tử Pháp[1] ( Tạp A Hàm, quyển 6, số 121, 雜阿含經 第6卷,一二一,死法), Phật dạy các đệ tử chánh tư duy về vô thường trong sinh tử để không dính mắc, không chấp giữ mà đạt đến   giác ngộ Niết Bàn.

Nội dung Kinh như sau:

“Một lần nọ Phật ở tại núi Ma Câu La. Lúc đó có vị thị giả tỳ kheo tên La Đà. Bấy giờ Thế Tôn nói với La Đà: Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong. Những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.”

Nội dung đoạn Kinh văn trên, Phật dạy các đệ tử vạn vậtvô thường, thế gianvô thường(世 間 無 常)[2]. Vạn vật  phải chịu quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Diệt vong để có sự tiếp nối. Bởi sự tiếp nối xảy ra trong từng sát na, nên vạn vật không có tính thường hằng. Ngay cả thân ngũ uẩn cũng vô thường.  Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.

Ở kinh văn tiếp theo dưới đây, Phật chỉ dạy cho các đệ tử của ngài vô thường là khổ:

“Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Sắc là thường hay vô thường?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn, vô thường.
Phật lại hỏi: Nếu là vô thường, thì khổ chăng?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn,  khổ.
Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Đối với thọ, tưởng, hành, thức có vô thường?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn, vô thường.
Phật lại hỏi: Nếu là vô thường, thì khổ chăng?
La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

Học đoạn Kinh văn trên, người học Phật hiểu được vô thường là khổ bởi tất cả phải theo quy luật diệt vong (一切皆是死法, nhất thiết giai thị tử pháp). Nhưng  người học phải liễu tri rằng bản tính vô thường không gây ra khổ mà vọng tưởng sự vô thườngthường hằng mới đem lại khổ đau. Với con người, ít ai dễ dàng chấp nhận vô thường. Ít ai chấp nhận thân thể của mình vô thường như cỏ cây hoa lá. Chấp nhận sinh trụ dị diệtquy luật.

Biết rằng vạn phápvô thường, khổ, vậy chúng ta, những đệ tử của Phật phải tu học như thế nào, chánh tư duy về sắc, thọ, tưởng, hành thức thế nào để đem lại an lạc trong cuộc sống.

Đọc tiếp đoạn Kinh văn sau để biết Phật dạy các đệ tử của ngài tại sao các bậc đa văn thánh đệ tử đã an nhiên tự tại trong cuộc sống.

“Phật lại hỏi: Này La Đà, nếu vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?

La Đà thưa Phật : Bạch Thế Tôn, không.

Phật dạy La Đà: Nếu đa văn thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết Bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Đa văn thánh đệ tử là hàng đệ tử học rộng, nghe nhiều, có trí tuệ soi sáng con đường tu học. Liễu tri tất cả các pháp đều vô thường, có sinh thì phải có diệt. Khi đã vượt được ý niệm sinh diệt thì các vị ấy tiếp xúc được với cái vui của Niết Bàn.

Hàng đệ tử hậu học, chúng ta cần phải tinh tấn tu học để có tuệ giác soi sáng nhận thức về vô thường, Học được quy luật diệt vong ( 一切皆是死法, nhất thiết giai thị tử pháp) mà không còn ảo vọng về thường hằng trong cuộc sống. Vô thường dạy cho mình trân quý  mỗi giây phút hiện tạiVô thường làm mình yêu quý chính mình và người thân của mình nhiều hơn nữa. Hãy sống chánh niệm trong hiện tại. Không chấp giữ đâu là ngã, đâu là ngã sở thì cuộc đời nhẹ nhàng hơn. Đó là đích của tu học.

Xin mời quý vị đọc lại toàn bộ Kinh văn Tử Pháp.

 

Bản Việt văn

Kinh Tử Pháp

Tôi nghe như vầy:

Một lần nọ Phật ở tại núi Ma Câu La. Lúc đó có  vị tỳ kheo thị giả tên là La Đà. Bấy giờ Thế Tôn nói với La Đà: Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.

Những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.

Phật hỏi tỳ kheo La Đà:   “Sắc là thường hay vô thường?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn, vô thường.”

Phật lại hỏi: “Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Đối với thọ, tưởng, hành, thức có vô thường?

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn, vô thường.”

Phật lại hỏi: “Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

“Phật lại hỏi: Này La Đà, nếu vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”

La Đà thưa Phật : Bạch Thế Tôn, không.

Phật dạy La Đà: Nếu đa văn Thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, tỳ kheo La Đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

Bản Hán văn

 

雜阿含經 (一二一) 死法

如是我聞:

一時,佛住摩拘羅山。時,有侍者比丘名曰羅陀。

爾時,世尊告羅陀比丘言:「諸所有色,若過去、若未來、若現在,若內、若外,若麁、若細,若好、若醜,若遠、若近,彼一切皆是死法;所有受、想、行、識,若過去、若未來、若現在,若內、若外,若麁、若細,若好、若醜,若遠、若近,彼一切皆是死法。」

 

佛告羅陀:「色為常耶?為無常耶?」

答曰:「無常。世尊!」

復問:「若無常者,是苦耶?」

答曰:「是苦。世尊!」

「受、想、行、識,為常、為無常耶?」

答曰:「無常。世尊!」

復問:「若無常者,是苦耶?」

答曰:「是苦。世尊!」

復問:「若無常、苦者,是變易法,多聞聖弟子寧於中見是我、異我、相在不?」

答曰:「不也,世尊!」

佛告羅陀:「若多聞聖弟子於此五受陰如實觀察非我、非我所者,於諸世間都無所取,無所取者無所著,無所著故自覺涅槃:『我生已盡,梵行已立,所作已作,自知不受後有。』」

佛說此經已,羅陀比丘聞佛所說,歡喜奉行。

 

Bản Nôm

Nhất thời, Phật tại Ma Câu La sơn. Thời, hữu thị giả tỳ kheo danh viết La Đà.  Nhĩ thời, Thế Tôn cáo La Đà tỳ kheo ngôn: Chư sở hữu sắc, nhược quá khử, nhược vị lai, nhược hiện tại, nhược nội, nhược ngoại, nhược thô, nhược tế, nhược hảo, ngược xú, nhược viễn, nhược cận, bỉ nhất thiết tử pháp. Sở hữu thọ, tưởng, hành, thức, nhược quá khử, nhược vị lai, nhược hiện tại, nhược nội, nhược ngoại, nhược thô, nhược tế, nhược hảo, ngược xú, nhược viễn, nhược cận, bỉ nhất thiết tử pháp.

Phật cáo La Đà: Sắc vi thường da? Vi vô thường da?

Đáp viết: Vô thường, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường giả, thị khổ da?       

Đáp viết: Thị khổ, Thế Tôn!

Thọ, tưởng, hành, thức vi thường, vi vô thường da?

Đáp viết: Vô thường, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường giả, thị khổ da?       

Đáp viết: Thị khổ, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường, khổ giả, thị biến dịch pháp. Đa văn thánh đệ tử ninh ư trung kiến thị ngã, dị ngã, tương tại phủ?

Đáp viết: Bất dã, Thế Tôn!

Phật cáo La Đà: Nhược đa văn thánh đệ tử ư thử ngũ thọ uẩn như thật quán sát phi ngã, phi ngã sở giả, ư chư thế gian đô vô sở thủ, vô sở thủ giả vô sở giả, vô sở giả cố tự giác Niết Bàn. Ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, tự tri bất thọ hậu hữu.

          Phật thuyết thử Kinh dĩ, La Đà tỳ kheo văn Phật sở thuyết, hoan hỷ phụng hành. ( chung )

Xin nguyện hồi hướng công đức cho cụ bà Trương Thị Giao ( Vigil), Pháp danh Quảng Thiện được vãng sanh tịnh độ.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Bến Tre, ngày 13 tháng 12 năm 2021
Hoàng Phước Đại – Đồng An


[1] https://tripitaka.cbeta.org/T02n0099_006- Kinh Tử Pháp

[2] http://tripitaka.cbeta.org/T17n0779_001- Kinh Bát Đại Nhân giác tri.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3645)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3256)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3328)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2926)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3395)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3725)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3560)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3562)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2889)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3554)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3077)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3599)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3395)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3380)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3824)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3889)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3270)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3613)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3297)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3130)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3172)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4577)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3549)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3100)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4433)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3355)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3947)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4505)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3776)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3244)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3499)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3072)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3281)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3764)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3753)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3321)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3198)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3181)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3110)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3529)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3372)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3353)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3442)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3923)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3395)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3750)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3403)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3449)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4425)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3442)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant