Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phước Hữu Lậu Và Phước Vô Lậu

21 Tháng Bảy 202216:28(Xem: 2377)
Phước Hữu Lậu Và Phước Vô Lậu

Phước Hữu Lậu Và Phước Vô Lậu

Thích Nữ
 Hằng Như

 

Trí Tuệ Và Phương Tiện Hợp Nhất

I. DẪN NHẬP

Xưa nayhành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học. Song song với Pháp học, hành giả phải áp dụng những chân lý đã học vào chính bản thân của mình gọi là Pháp hành. Học mà không hành, kết quả tuy có giúp mở rộng kiến thức về Phật học. Nhưng nếu không khéo tu tập thì cái mớ kiến thức đó sẽ khiến bản ngã người học ngày một thêm lớn, đi ngược với đường lối Phật dạy. Còn tu mà không nắm vững giáo lý, không hiểu biết tường tận đường đi nước bước, xem như tu trong mù mờ vô minh, chỉ có hại chứ không ích lợi gì. Ngày xưa Đức Phật thuyết pháp giảng dạy cho đệ tử tùy theo căn cơ không theo bài bản nhất định. Sau khi Phật nhập diệt mấy trăm năm, các tôn giả là đệ tử của Ngài cùng nhau kết tập, trùng tu… ghi chép lại thành Đại Tạng Kinh gồm Kinh, Luật, Luận.  Ngày nay chúng ta may mắn học Phật bằng Việt ngữ là do chư Thầy Tổ đã dày công chuyển dịch từ Phạn ngữ, Hán ngữ sang Việt ngữ. Các Ngài đã phân loại và  sắp xếp theo thứ tự bài bản, gồm hai tạng Nam truyền (kinh Nikãya) và Bắc truyền (kinh A-Hàm hay Hán tạng) gọi chung là Đại Tạng Kinh.

Trong vô số những bài kinh cần học hỏi có rất nhiều thuật ngữ khó hiểu, chúng ta cần được đả thông để việc thực hành không bị sai lạc. Trong bài viết này chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của phước hữu lậu và phước vô lậu hay là phước đức và công đức khác nhau như thế nào?

    

                 II. PHƯỚC HỮU LẬUVÔ LẬU LÀ GÌ?

Phước hay phúc gọi đầy đủ là phước đức hay phúc đức, là những điều tốt lành gọi chung là kết quả tốt mà hành giả được thừa hưởng trong đời, nhờ những nhân duyên thiện lành đức độ mà người ấy đã tạo ra từ trước.

Lậu nói cho đủ là lậu hoặc, dịch theo âm tiếng Hán. Chữ gốc là Ãsava (Pãli). “Lậu” có nghĩa đen là sự rỉ chảy, rơi rớt, lưu lại, sót lại. “Hoặc” có nghĩa là dơ bẩn, ô uế. Trong giáo lý nhà Phật, hai từ “lậu hoặc” nhằm ám chỉ những chất dơ bẩn, như là dòng máu mủ hôi tanh dơ dáy, không ngừng tươm chảy làm ô nhiễm tâm trí của chúng sanh. Chất dơ bẩn đó là những đam mê ghiền nghiện, những hành vi xấu ác… huân tập từ nhiều đời và tiếp tục tạo thêm ở đời này thông qua sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi sáu căn này tiếp xúc với sáu trần, bị sáu trần lôi cuốn khiến con người dễ rơi vào cảnh sa đọa của ngũ dục tạo nghiệp, có xấu có tốt, nhưng đa phần là xấu ác nhiều hơn. Khi thân hoại mạng chung, tùy nghiệp nhân đã tạo, mà phải chịu nghiệp quả trầm luân, lưu lại nhiều đời trong ba cõi sáu đường không thể giải thoát nên gọi là lậu hay lậu hoặc.

Hữu là còn, là có, chỉ cho sự tham ái, dính mắc, chấp thủ, mong muốn có mặt trong đời sống này hay đời sống sau. Vì thế, những gì còn duy trì, còn lưu lại trong Tam giới (Dục giớiSắc giớiVô sắc giới), cái đó mang nghĩa là hữu lậu.

Như vậy, Phước hữu lậu là phước báo mà chúng sanh được hưởng trong đời này hay đời sau. Đó là sự giàu sang phú quý, khỏe mạnh, xinh đẹpthông minhquyền lực, được nhiều người yêu thươngkính trọng v.v… Sự hưởng thụ này tương đương với kết quả của những việc làm thiện lành, đạo đứchiền lương, tử tế, giúp đỡ phục vụ tha nhân của người này từ nhiều đời trước. Những người này, được xem là những người có phước, phước đó gọi là Phước hữu lậu.

Ngược lại một người sanh ra đời với thân thể khiếm khuyết, hoặc vẹn toàn mà thường hay bệnh hoạn. Luôn sống trong hoàn cảnh khốn khó: Suốt ngày đầu tắt mặt tối mà cơm không đủ no, áo không đủ ấm, nợ nần ngày một chồng chất, con cái hư hỏng, gia đình luôn xào xáo phiền muộn  v.v…  Khi khổ sở quá, người này tự đấm ngực than rằng mình thiếu phước hay vô phước. Theo thuyết “Nhân Quả Nghiệp Báo” trong nhà Phật thì cho rằng đó là nghiệp quả xấu do đời sống không có đạo đức ở những kiếp trước, chẳng hạn như có hành vi độc ác hại người, hại vật v.v… nên đời này tái sanh làm người thiếu thốn khổ sở để trả nghiệp cũ. Làm việc tốt thì sẽ hưởng quả tốt tương đương hay nhiều hơn. Làm việc xấu ác thì nhận quả xấu tương đương hay nhiều hơn. Trong kinh dạy rằng “con người thừa tự nghiệp của chính mình gây ra” là như vậy!

Tóm lại, kết quả tốt mà con người được hưởng trong đời sống ở thế gian gọi là Phước hữu lậu. Phước hữu lậu có được là do hành động phục vụ tốt đẹp ích lợi cho đời nhiều hay ít của mình trước kia, mà được hưởng phước thế gian nhiều hay ít của đời này.

Vì là hữu lậu nên phước này vô thườngbiến dịch. Nếu con người chỉ biết hưởng phước mà không lo tu tập tạo thêm phước, thì một ngày nào đó phước sẽ cạn, rồi hết phước. Lúc bấy giờ những quả xấu xuất hiện khiến mình chịu khổ. Cho nên muốn giữ được phước hữu lậuhành giả vẫn phải tiếp tục tu tập theo lời Phật dạy: “Siêng làm việc lành, tránh việc ác, giữ tâm ý trong sạch” để không bị mất phước. Ví như mình gởi tiền vào nhà băng. Nếu không tiếp tục gởi tiền để dành vào trương mục của mình mà cứ rút ra xài mãi thì một ngày không xa, số tiền trong trương mục không còn nữa. Phước hữu lậu cũng thế. Dù là phước thế gian hay phước ở cõi Trời, nó không tuyệt đối vì bị giới hạn.

Người tu Phước vô lậu và Phước hữu lậu đều có những hành vi thiện lành giống nhau, nhưng tâm tư của mỗi hành giả lúc thực hiện thì khác nhau. Cùng một hành động, mà một đằng hướng đến tái sinh hưởng phước hữu lậu vật chất ở tương lai. Một đằng là công đức tu hành, làm lợi ích chúng sanh bằng tâm quảng đại. Khi cần thì làm. Làm xong thì thôi, không dính mắc gì cả. Vô lậu nghĩa là trong sạchtrong sángVô lậu thuộc pháp xuất thế gian nên không bị giới hạn. Đó là cái phước của nội tâm an tĩnhthanh tịnh không còn bị lậu hoặc (phiền nãoquấy rầy.

 

III.  TU PHƯỚC ĐỨC VÀ TU CÔNG ĐỨC

Tu theo ý nghĩa trong nhà Phật là hành động có chọn lựa, là sự hành trì một pháp môn tu tậpTu chính là sửa đổi thân, khẩu, ý của mình ngày một tốt hơnchuyển đổi những ý nghĩ tiêu cực chán nãn sang tích cực vui vẻTừ tâm ý hay việc làm chưa lương thiện chuyển sang lương thiện. Biết kiềm chế lại hành vi trái với đạo đức làm khổ người, khổ mình, mà phải có suy nghĩ hành động đúng theo chân lý, tức đúng với chánh pháp. Tu ở đây không phải là ức chế tâm, hành khổ thân, không phải bắt buộc bản thân phải tuân thủ theo giáo điều này, giáo điều nọ, hầu mong sớm đạt được tiêu điểm đề ra, mà thực chất người tu hành phải có sự sống an lạc hơn, hạnh phúc hơn, lương thiện hơn nhờ vào sự quán chiếu, sửa đổi tâm tánhbuông bỏ những điều xấu ác nếu có của chính mình thì mới đúng.

Tạm hiểu tu là như thế, nhưng trong nhà Phật có đề cập đến hai loại tu. Đó là Tu Phước Đức và Tu Công Đức. Vậy thế nào là Tu Phước Đức và thế nào là Tu Công Đức?

Người tu đạo Phật, tùy theo pháp môn mà tu tậpThí dụ một người quy y Tam Bảo, thọ và giữ giới, đó là tu. Hằng ngày tụng kinhtrì chúniệm Phật đó là tu. Thực tập loại trừ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cho chính bản thân mình thì đó là tu. Giữ chánh niệm trong đời sống hằng ngày đó là tu. Thực hành thiền định hay thiền tuệ, đó là tu. Ngoài cộng đồngxã hội thì tham gia làm các việc phước thiện giúp ích người nghèo khổthiên tai, bệnh tật bằng tiền bạc hay công sức của mình… đó là tu.  Tóm lại, những việc làm mang lợi ích cho quần sanh hay tự thân minh, về mặt tinh thần hay vật chất đều được xem là “tu”. Tu tinh thần hay tu vật chất đều có phước.

Về mặt hình thức thì xem như mọi người có thể làm lành lánh dữ  giống nhau, nhưng không phải người nào cũng thực hành với một tâm lý, một ý nghĩa hay một mục đích giống nhau. Do đó phước báo của mỗi người tùy theo trạng thái tâm lúc “tu tập” như thế nào để có Phước đức hay Công đức

Dưới đây là câu chuyện đối thoại nổi tiếng được ghi lại trong Phật sử giữa vua Lương Võ Đế và Tổ Bồ Đề Đạt Ma về Phước đức hay Công đức mà hầu hết các thiền sinh ai cũng biết như sau:

“Vào năm 527 Tây lịch, khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng pháp. Ngài được vua Lương Võ Đế tiếp kiến tại cung điện. Trong lúc bàn luận đạo lý, nhà vua hỏi:

- Trẫm một đời cất chùa, độ tăngbố thícúng dườngđúc chuôngtạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có công đức gì chăng?

Tổ Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

- Những việc làm ấy thực sự không có công đức gì cả!

- Tại sao không công đức?

- Bởi vì những việc vua làm là nhân “hữu lậu”, chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.

- Vậy công đức chân thật là gì?

- Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không, vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng)  mà cầu được.”

 Những lời nói của Tổ Bồ Đề Đạt Ma lúc đó thực sự khiến vua Lương Võ Đế không hài lòng,  cũng khiến nhiều người thắc mắc, không hiểu tại sao vua làm nhiều điều lợi ích cho đạo Phật như vậy mà không có công đức gì cả!

Thời gian lâu sau đó, có người nêu lên vấn đề này và được Lục Tổ Huệ Năng dạy như sau: “Quả thực là không có công đức gì cả. Vua Lương Võ Đế vì không biết Chánh pháp, nên lầm hai chữ “Công đức” và “Phước đức”. Những việc làm của vua như cất hàng trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dườngbố thíđúc chuôngtạo tượng, ấn tống kinh sách… Đó là những việc làm có lợi ích cho mọi người, nhưng là việc làm có trao đổi cầu phúc nên gọi là “Phúc đức” hay “Phước đức”.

Theo lời giải thích trên thì những việc làm của vua Lương Võ Đế cũng có phước, nhưng là Phước đức hữu lậu.

Phước đức có công năng giúp chúng ta ngăn ngừa nghiệp chướngmay mắn, tai qua nạn khỏi, công việc làm ăn được hanh thông, cuộc sống bản thân được hạnh phúc v.v… Phước đức giúp chúng ta giảm thiểu chướng ngại trên đường tu chứ không giúp chúng ta thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi trong Tam giớiĐức Phật dạy: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường”, Phước đức gồm những phước hữu lậu (giàu cóxinh đẹpthông minh, hạnh phúc…) còn gọi là hữu vi, nên vô thường. Vì thế, trong thời gian hưởng phước mà không lo tu tập để tạo thêm phước, thì khi hết phước sẽ thì bị đọa để trả nghiệp xấu.

Còn công đức là công phu tu tậphành trì theo lời Phật dạy hướng đến giác ngộ giải thoát bằng cách giữ gìn giới luậttinh tấn thiền định, phát huy trí tuệCông đức là con thuyền đưa hành giả vượt qua biển khổ tử sinh đến bờ giác ngộĐặc tính của Công đức là vô lậu tức vô vi, hướng đến quả Vô sanh, nó thường hằng và không còn bị trói buộc trong Tam giới nữa.

 

                                                           IV. KẾT LUẬN

Chúng ta tu tập, làm việc thiện lành như bố thícúng dường trai tăng, ấn tống kinh sách và nhiều điều ích lợi khác cho bá tánh với tâm cầu mong được hưởng quả báo lành sau này. Phước chúng ta được hưởng từ những việc làm đó gọi là Phước hữu lậu hay là Phước đức. Đó là Phước thế gian thuộc về Tục đế. Nhưng nếu chúng ta cũng làm những việc thiện lành trên với tâm không cầu mong được tri ânbáo đáp, mà hành động bố thí cúng dường với tâm từ bi vô ngã, chỉ để người được giúp bớt khổ, chỉ để chùa có thêm phương tiện sinh hoạt làm lợi ích cho chúng sanh. Ấn tống kinh sách cho mọi người nghiên cứu mở mang trí tuệ và ngay cả bản thân chúng ta cũng trì tụng học hỏi mở mang kiến thức Phật học, để việc hành trì tu tập của chúng ta đúng với chánh pháp, đúng theo lời Phật dạy. Như vậy việc làm của chúng ta quả thật vừa mang phúc lợi đến cho tha nhân, vừa có lợi cho chính tự thân mình trên con đường tu tâm linh. Đó là chúng ta vừa “Tu Phước Đức vừa Tu Công Đức” và kết quả trên đường tu, chúng ta được hưởng cả hai thứ Phước hữu lậu và Phước vô lậu. Phước hữu lậu sẽ hỗ trợ cho chúng ta trên con đường tu tập hướng đến Vô lậuVô sanh. Phước vô lậu là cái phước vượt ngoài hiện tượng thế gianthoát khỏi Tam giới (Dục giớiSắc giớiVô sắc giới). Vì vô lậuvô vi nên nó thường hằng bất biến, thuộc về Chân đế. Đó chính là công đức mà hành giả có được. Công đức này chính là trạng thái nội tâm thanh tịnhvắng lặng tỉnh thứctrí huệ khai mở, có chánh tríchứng ngộ Niết-bàn, tức giác ngộ giải thoát vậy!

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Thiền thất CHÂN TÂM- July 13-2022)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2774)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2556)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2547)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2683)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2457)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3278)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2428)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2562)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2482)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2559)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2603)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3070)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2666)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2732)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3020)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2580)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2621)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4123)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2792)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3088)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3328)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2302)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2533)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2816)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3019)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2632)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2643)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3204)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2668)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2322)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2496)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2706)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3288)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2573)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2837)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2995)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2971)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2795)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant