Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chết Trong Khi Sống

25 Tháng Mười 202215:05(Xem: 2236)
Chết Trong Khi Sống

Chết Trong Khi Sống


Cory Taylor
Diệu Liên Lý Thu Linh

 Chết Trong Khi Sống

 


Cory Taylor sinh năm 1955 tại Queenland.  Bà là nhà văn, nhà biên kịch có nhiều tác phẩm được giải thưởng.  Bà cũng sáng tác truyện ngắn và sách cho thiếu nhi.   Bà mất vào ngày 5, tháng 7, 2016, vài tháng sau khi quyển hồi ký này được xuất bản tại Úc.
***
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai.  Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.  Sự xuống dốc của mẹ tôi ban đầu chậm, rồi trở nên rất nhanh.  Ở cuối chặng đường, tôi dường như không còn nhận ra được người mẹ tôi yêu mến và ngưỡng mộ.  Khi bà cuối cùng ra đi thì tôi đang ở nước ngoài, nhưng tôi đã ở cạnh bà những tháng ngày trước khi bà mất.  Tôi đã chứng kiến những sự tàn phá, đau đớn, tủi nhục, không còn khả năng tự lo và lý trí của kiếp con người.

Bà mất trong một viện dưỡng lão, nơi chốn của sự thất vọng cùng cực.  Chỉ cần đi qua cánh cửa đó, ý chí của tôi dường như bị thử thách.  Lần cuối khi tôi nhìn thấy mẹ, tôi đứng cạnh bên mà cảm thấy  hoàn toàn vô tích sự, trong khi cô y tá trẻ lau giúp phần dưới cho bà.  Mẹ tôi bấu vào bồn rửa mặt trong phòng tắm với tất cả sức lực còn lại của bà, trong khi cô y tá buộc cái tã mới vào chiếc mông khô héo của bà.  Ánh nhìn trong đôi mắt của mẹ tôi, khi bà quay ra và thấy tôi đang đứng nhìn, khiến tôi nhớ lại đôi mắt của một con thú trong cơn đau đớn cùng cực.  Ngay lúc đó, tôi đã ước thần chết hãy nhanh chóng đến mang bà đi, để dừng lại cái nhục hình mà bà đang phải chịu đựng mỗi ngày.  Nhưng mọi thứ vẫn tiếp tục hơn cả chục tháng nữa, thân bà vẫn níu kéo trong khi tâm bà đã từ bỏ chỗ trú ngụ lâu rồi.  Tôi không thể nghĩ đến điều gì có thể tàn nhẫn và không cần thiết hơn thế.  Lúc đó, tôi đã biết mình bị ung thư, và phần nào tôi cảm thấy hàm ân vì điều đó.  Ít nhất tôi sẽ tránh được cái chết giống như của mẹ tôi, tôi nghĩ vậy.  Đó cũng là điều đáng phải vui mừng.

Tôi cũng vắng mặt khi cha tôi mất, cũng trong viện dưỡng lão, do sự suy yếu của tuổi già.  Cha mẹ tôi đã chia tay nhau 35 năm trước, do đó tôi cũng thành xa lạ đối với cha.  Nhưng có một kỷ niệm tôi vẫn nhớ về ông là viễn tưởng về một giải pháp cho sự xuống dốc của tuổi già.  Ông đã nói với chúng tôi –tôi, mẹ tôi và các anh chị lớn của tôi- rằng ông dự tính sẽ dong buồm ra biển Thái Binh Dương để trầm mình.  Tuy nhiên, ông liên tục thất bại trước việc vượt qua chướng ngại đầu tiên vì ông chẳng bao giờ mua thuyền.  Ông đọc các tạp chí về thuyền buồm, khoang tròn các quảng cáo bán thuyền trong đó.  Ông lái những chuyến xe đường dài để xem các chiếc thuyền ông nghe quảng cáo hấp dẫn, nhưng ông luôn tìm ra lý do để không mua: thiếu tiền, hoặc ông không muốn đi một mình trên thuyền.  Có lúc, ông còn hỏi mẹ tôi góp nửa vốn và cũng dong thuyền ra khơi với ông, một đề nghị không được mẹ tôi chấp nhận.  Lẽ ra mẹ nên nghe theo ông.  Lẽ ra họ nên cùng nhau dong buồm đi vào buổi hoàng hôn, và chẳng bao giờ trở lại nữa; nhưng họ đã tiếp tục sống và chết một cách khốn khổ.    

Chắc chắn là nỗi kinh hoàng khi chứng kiến cha mẹ đã kết thúc cuộc đời mình như thế nào, đã khiến tôi tìm cách làm cho khi đến lượt mình sẽ được tốt hơn.  Với ý nghĩ đó trong đầu, ngay sau khi bị chẩn đoán bệnh ung thư, tôi đã đi theo gương mẹ, và gia nhập Hội Ra Đi Quốc Tế (Exit International), với mong muốn đẩy nhanh hơn các bước phát triển trong lãnh vực được chọn cái chết. 

Tôi không muốn làm mất uy tín các bác sĩ đã từng chăm sóc tôi.  Nhìn chung, họ đều tài giỏi, và dĩ nhiên là tôi mang ơn họ rất nhiều.  Tuy nhiên, ngoài các chuyên viên giúp làm giảm đau, không có vị bác sĩ nào nói đến cái chết, một điều mà cho tới bây giờ, tôi cũng không hiểu nổi.  (…)
May mắn thay, sau đó tôi đã tìm được một chuyên viên chăm sóc mà tôi cảm tình, và anh đã giúp tôi tìm một nhà an dưỡng Phật giáo.  Các y tá ở đây không phải là Phật tử, nhưng tổ chức này được thiết lậpbảo trợ bởi các tăng ni tu theo hệ phái Tây tạng.

Một trong các nữ tu đã có đôi lần thăm viếng tôi, không phải là những buổi tư vấn chính thức, nhưng để trao đổi về cách tôi đối phó thế nào với hoàn cảnh của mình.  Dĩ nhiênvấn đề tôn giáo cũng đi vào các câu chuyện, nhưng chính là vì tôi tò mò muốn biết cô đến với đạo như thế nào.  Dường như đó là một quá trình lâu dài kể từ lúc nhận ra điều gì đúng cho mình, rồi học kinh điểntu thiền hàng bao năm trước khi cô được chính thức gia nhập tăng đoàn.  Điều tôi muốn biết nhất là quan điểm của cô về cái chết.  Tôi đã nói với cô rằng tôi tin chết là hết, nhưng cô khẩn hoản tôi chuyển đổi ý mình.

Cô giải thích cho tôi cách thân kết thúc như thế nào, không để lại gì ngoài tâm thức. Đôi khi lúc thân thở hơi cuối cùng, tâm đi vào hư không.
“Sau đó thì thế nào?”, tôi hỏi.
“Tâm sẽ tìm thân vật lý khác”.
“Tại sao nó làm thế?”
“Ái dục”.
Tôi biết về Phật giáo đủ để hiểu rằng ái dục bị coi như một lời nguyền, nên khi cô nữ tu bắt đầu nói về vòng luân hồi tái sinh vô cùng tận như là số phận của những kẻ phàm phu, tôi có thể hiểu tại sao người ta muốn dứt bỏ nó. (…)

Dọc theo bờ sông có một công viên dài khoảng bốn cây số.  Tôi thường cùng chồng đi dọc theo bờ sông mỗi sáng, chiều.  Dòng nước không bao giờ giống nhau, có lúc nó êm đềm, lúc sóng mạnh, lúc như xô nhau ra biển, khi hấp tấp tràn vào bờ…  Giờ chúng tôi không còn đi bộ như thế nữa.  Tôi sợ té, sợ gãy cái gì đó trong thân.  Tôi cũng không còn đạp xe dọc bờ sông, lại một thú tiêu khiển khác phải bỏ qua.  Tôi nhìn những người đạp xe ngang qua, lúc lướt nhanh, lúc gò lưng lên dốc.  Tôi ao ước được như họ….  Và cứ thế, bao nhiêu thú tiêu khiển tôi không còn được hưởng thụ nữa. Dĩ nhiên, tiếc nuối không ích lợi gì, không thể mang chúng trở về lại với tôi, nhưng những điều tuyệt vời đó để lại một khoảng trống mênh mông khi chúng không còn nữa.  Tôi thầm hàm ân là tôi đã được nếm trải rất nhiều thứ khi tôi có cơ hội.  Như thế, tôi đã có một cuộc sống đầy ân sủng, đầy bao điều thú vị.  Nhưng khi người ta phải ra đi, ngay cả những ký ức đau buồn nhất dường như cũng khiến ta nhớ nhung, như thể hạnh phúc không chỉ gói gọn trong những niềm vui mà nó bện chặt, nó xuyên suốt cuộc sống của ta giống như một cuộn chỉ vàng.

Diệu Liên Lý Thu Linh -2020
(Trích dịch từ Dying: A Memoir, by Cory Taylor (Chết: Hồi Ký của Cory Taylor).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2773)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2549)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2546)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2681)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2457)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3276)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2426)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2560)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2558)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2597)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3068)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2666)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2731)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3019)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2579)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2621)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2789)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3088)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3326)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2301)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2532)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3018)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2631)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3202)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2665)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2402)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2494)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2703)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3286)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2573)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2613)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2837)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2933)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2967)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2734)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant