Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vĩnh Hảo: Chánh-Tà, Chân-Ngụy

01 Tháng Mười Một 202215:03(Xem: 1877)
Vĩnh Hảo: Chánh-Tà, Chân-Ngụy
Vĩnh Hảo: Chánh-Tà, Chân-Ngụy

hd-wallpaper-6917223_1280-780x470

Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá. Trên cao đổ xuống thì là thác; chảy về chỗ thấp thì là suối; tràn khắp bình địa, thung lũng thì thành sông; đổ về chỗ tận cùng của bờ cõi thì là đại dương.

Không phải chỉ thấy cái tổng thể của núi rừng, mà còn thấy cả những ngóc ngách, chi li của những đời sống: này là mỏm đá nơi sư tử nằm nghiêng vào sâu giấc ngủ, cũng là nơi vặn mình, rống tiếng đầu ngày vang động sơn lâm; này là những chòm cây mà bầy khỉ thường tụ tập, chuyền cành, ăn uống, đùa giỡn inh ỏi; này là các hang đất, động đá lớn nhỏ cho cọp, beo, chồn, cáo… có khi lầm lũi tránh mặt nhau, có khi gầm gừ nhe nanh giương vuốt; này là chỗ tụ tập của bầy chó và bầy quạ ồn ào giành nhau miếng ăn… Thú lớn giành nhau mồi lớn, thú nhỏ tranh nhau mồi nhỏ. Loài có cánh và loài không cánh. Cho đến những loài côn trùng lớn nhỏ, đâu cũng có nơi có chỗ, có sinh hoạt trong đời dài-ngắn.

Để nhìn thấu nguyên nhân và thực trạng khổ đau của cuộc đời, bậc đại trí đã quán chiếu và thấu rõ tường tận các điều kiện nhân-duyên khởi đi từ vô minh, dẫn đến danh-sắc[1] trong một chuỗi mắt xích liền lạc nối nhau nhiều đời kiếp; từ đó, vạch ra phương pháp dứt trừ, giải thoát khổ đau để đạt đến an vui tịch tịnh. Con đường của bậc đại trí đã được nhiều người khác noi theo, từ đó hình thành những tập thể Tăng (Sangha). Trên đường tu chứng, không ai bị bắt buộc phải theo hay không theo một tập thể Tăng; nhưng nếu đã gia nhập, hòa nhập với một tập thể thì cần phải tuân thủ giới luật, nội quy, điều lệ của tập thể ấy.

Có một tập thể Tăng bị kiểm soát và điều hướng bởi một hệ thống đảng quyền. Có một tập thể Tăng phản đối, từ chối sự kiểm soát ấy ngay từ đầu. Dù hai tập thể ấy chủ trương và sinh hoạt khác nhau như thế nào, vẫn có chung một mục tiêutự giác, giác tha, nghĩa là tự tu tập hành trì để đạt đến giải thoát giác ngộ và hướng dẫn kẻ khác đạt được giải thoát giác ngộ như mình. Tất nhiên có những chướng duyên, trở ngại không thể tránh trong việc tu tậphoằng pháp đối với cả hai tập thể Tăng. Nhưng trong một chừng mức nào đó, từng cá nhân trong hai tập thể này, có thể nhìn thấy nhau trong chánh kiến (kiến đạo) và tương hội với nhau từ những tầng bậc cao thâm của con đường tu chứng (tu đạo). Ở những tầng bậc như thế, không có một thế lực hay khuôn khổ tổ chức nào từ bên trong hay bên ngoài tập thể Tăng có thể ngăn trở, chướng ngại.

Bậc hiền trí có khi phải lên rừng phát rẫy dựng chòi tranh, có khi phải nhập cuộc vì nguyện vọng chung mà chịu khổ hình tù tội, có khi phải lên núi hoặc lang thang trên những dặm dài cô tịch của quê hương, có khi lại phải xuống núi để dựng lại một tập thể Tăng đã bị nghiền nát, xóa sạch từ những nội trùng và ác đảng một thời. Danh gì, lợi gì với cuộc thế nhiễu nhương, với một chòi tranh xiêu vẹo chỏng chơ không cả tường vách khi tuổi đã về chiều, và một cơn bệnh thập tử nhất sinh? — Chỉ vì trọng trách truyền thừa, không thể để mạng mạch của tập thể Tăng này bị đứt mất. Nhu cầu sinh tử của tập thể Tăng này là có một sự tiếp nối, tương tục tồn tại, để từ đó mới có thể vực dậy một ngôi nhà đổ nát; và kỳ vọng một sự hồi sinh kỳ diệu mai sau. Thiết tưởng những ai còn nhớ nghĩ đến cơ đồ của Thầy-Tổ để lại, hãy hết lòng tán trợ cho sự thừa tiếp này, còn không, hãy im lặng, đừng vọng động: không ủng hộ việc chánh-thiện thì cũng đừng tiếp tay với kẻ ác, ngăn trở, hủy hoại con đường của tiền nhân.

Còn nhớ nhiều năm trước, ai cũng thấy rõ nội lực của tập thể Tăng này chỉ còn tập trung nơi ba nhân vật trụ cột có thể gìn giữ được giềng mối. Đó là lý do ngoại nhân, ác đảng và nội trùng quyết tâm phá hoại, chia rẽ, vu khống, hủy nhục cả ba nhân vật này suốt một thời gian dài. Rồi sau bao trầm thống, nguy nan, tủi nhục, lần lượt nhân vật thứ nhất nằm xuống, nhân vật thứ nhì nằm xuống, ắt sẽ truyền đến nhân vật thứ ba. Việc truyền thừachính danh hay không, tất nhiên là ở chỗ truyền trao và tiếp nhận tín vật biểu trưng của tập thể Tăng ấy; nhưng ngay cả trường hợp không có tín vật để truyền trao, sự tín nhiệmý nguyện của số đông cũng đã đặt lên vai nhân vật thứ ba nầy rồi. Hướng đi tất yếu của lịch sử phải như thế. Và đây là trách nhiệm cuối cùng vô cùng khó khăn của con sư tử già khi chung quanh có nhiều loài mãnh thú khác cũng chực chờ tranh ngôi, tiêu diệt; cho đến sói rừng, linh cẩu, diều hâu, chim quạ… cũng ngấp nghé thèm thuồng.

Tượng hình mà kể: Đại bàng thả cánh trên tầng mây cao. Mắt tinh anh, nhìn khắp đất trời. Việc cần làm thì làm, không cần làm thì bay đi. Có những việc chỉ có thể thấy từ trên cao. Chim quạ ở dưới này, biết chi việc ở mấy tầng mây mà nói!

Cho nên, việc phục hoạt hồi sinh một tập thể Tăng đã (gần như) chết, một tổ chức trống rỗng không còn một nhân sự nào, đòi hỏi một bậc trí tuệ cao viễn, đạo lực thâm sâu, chứ không phải chỉ trọng nơi áo mũ hay tuổi đời tuổi đạo; và cũng không thể trông cậy nơi những người mà tâm bồ-đề đã thối thất từ lâu.

Làm sao biết tâm bồ-đề của ai đó đã thối thất từ lâu? — Hãy cùng đọc lại 4 cách đầu trong 8 cách phát tâm bồ-đề[2] đã được khuyến đọc từ thuở còn sa-di:

“– Đời có kẻ tu hành mà chỉ tu hành một chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi, hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát tâm như vậy gọi là Tà;

Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ vì thoát sinh tử, vì chứng Bồ đề: phát tâm như vậy gọi là Chánh;

Ý niệm này nối tiếp ý niệm khác, ngước lên mà mong cầu Phật đạo, tư tưởng trước liên tục tư tưởng sau, nhìn xuống mà hóa độ chúng sanh, nghe Phật đạo lâu xa cũng không thoái chí khiếp sợ, xét chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như trèo núi cao cả vạn trượng cũng quyết tận đỉnh, như lên tháp lớn đến chín tầng cũng cố tột nóc: phát tâm như vậy gọi là Chân;

– Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy gọi là Ngụy.”

Đọc lại để tự nghiệm xét, tự lượng, tự biết nên đặt mình ở vị trí nào trong nẻo đạo, hay trong một tập thể Tăng, chứ đừng vội phê phán, bàn cãi, đố kỵ và chấp tranh với những ngôi vị. Bởi vì, tâm bồ-đề một khi đã bị mờ nhạt, hoặc quên mất, hoặc bị sai lệch, thì tất cả những hành động (dù là hành vi thiện), lời nói (dù là nói chánh pháp), cho đến ý nghĩ (dù là chánh niệm), cũng đều là hành vi của Ma[3].

Nơi kia có một đốm lửa được nhen nhúm sau những đêm dài u minh thất tán, hãy cùng tiếp sức để thổi bùng lên ánh đạo nhiệm mầu, thiêng liêng.


[1] Danh-sắc ở đây tức ngũ uẩn hay ngũ ấm, là năm yếu tố hội tụ, kết hợp tạo nên đời sống con người. Danh chỉ cho phần tinh thần, trừu tượng, chỉ có thể gọi tên, không thấy được, gồm thọ (cảm giác), tưởng (nhận thức, phân biệt), hành (ý chí, khuynh hướng dẫn nghiệp) và thức (ý thức); còn sắc là phần thể chất.

[2] Trích từ “Khuyến Phát Bồ-đề Tâm Văn” – Bài văn khuyên phát tâm Bồ-đề của Đại Sư Tỉnh Am, do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch Việt.

[3] “Vong thất bồ-đề tâm tu chư thiện pháp danh vi ma nghiệp” (Kinh Hoa Nghiêm) – Quên mất tâm bồ-đề mà thực hành các thiện pháp thì cũng vẫn là việc làm của Ma.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1103)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 930)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant