Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Có Tâm

05 Tháng Mười Một 202205:47(Xem: 2223)
Người Có Tâm

NGƯỜI CÓ TÂM

Tâm Anh  

 
Người Có Tâm


Nếu một người có nghị lựctâm trítrong sáng trong suy nghĩlời nói và việc làm một cách cẩn trọng và cân nhắckiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.

Câu chuyện về Kumbhaghosaka. Chủ ngân hàng

Trong khi cư trú tại tu viện Veluvana, Đức Phật đã thốt ra  bài kệ Pháp Cú (24) trong cuốn sách này có liên quan đến Kumbhaghosaka, chủ ngân hàng.

Có lần, một trận dịch hạch bùng phát ở thành phố Rajagaha. Trong nhà của chủ ngân hàng thành phố, những người hầu hạ đều chết vì bệnh này, vợ chồng nhân viên ngân hàng cũng bị tấn công tương tự. Khi cả hai đều suy sụp vì căn bệnh này, họ đã bảo với cậu con trai rằng: “Con hãy rời bỏ cha mẹ và ra khỏi nhà, sau một thời gian dài khi đại dịch thật lắng xuống, hãy quay lại.”  Và cũng dặn con trai nơi họ đã chôn cất một kho báu trị giá bốn mươi crores (một loại tiền của Ấn Độ)

Vâng lời cha mẹ, người con trai rời thành phố và ở trong một khu rừng suốt hai mươi năm. Sau đó anh ta quay lại thành phố.

Lúc ấy, Kumbhaghosaka là một thanh niên khá trưởng thành và không ai trong thành phố nhận ra anh ta. Anh đến nơi chôn cất kho báu và thấy nó khá nguyên vẹn. Nhưng anh ta lý luận và nhận ra rằng không ai có thể xác định được anh ta. Nếu anh ta khai quật kho báu bị chôn giấu và sử dụng kho báu đó, người ta sẽ sanh tâm nghi ngờ và báo cáo lên vua. Nếu vậy, tài sản cha mẹ anh để lại sẽ bị tịch thu và bản thân anh ta có thể bị truy cứu và bị giam cầm. Anh nghĩ, vẫn chưa đến lúc khai quật kho báu và ngày ngày anh vẫn tìm công việc mưu sinh.

Mặc trên người bộ quần áo cũ, Kumbhaghosaka đi tìm việc làm. Anh được giao công việc đánh thức mọi người thức dậy mỗi sáng sớm để đi làm. Thêm nữa, anh sẽ đi quanh để thông báo cho mọi người biết giờ chuẩn bị thức ăn.

Một buổi sáng, nhà vua - một vị tinh tường về giọng nói - nghe tiếng anh ta đi quanh thông báo cho mọi người biết giờ giấc, đã nhận xét: “Đây là giọng nói của một người giàu có”. Một cô hầu gái nghe nhận xét của vua, đã cử người đi điều tradò hỏi. Người đi điều tra về thuật lại rằng, thanh niên kia chỉ là người làm thuê cho những người lao động.

Bất chấp lời báo cáo này, nhà vua vẫn lập lại nhận xét tương tự hai ngày sau đó. Một lần nữa, các yêu cầu đã được thực hiện nhưng vẫn có kết quả như cũ. Cô hầu gái nghĩ rằng điều này rất kỳ lạ nên đã xin nhà vua cho phép cô tự đi điều tra danh tính chàng thanh niên kia.

Mẹ con cô hầu gái đã cải trang, hối hả lên đường đến nơi ở của xóm lao động nghèo. Nói rằng họ là khách du lịch, họ yêu cầu được ở lại chỉ một đêm trong ngôi nhà của Kumbhaghosaka. Tuy nhiên, họ đã tìm cách kéo dài thời gian ở lại đó.

Trong thời kỳ đó, nhà vua đã hai lần tuyên bố rằng phải thực hiện một nghi lễ nhất định tại địa phương của người lao động và mỗi gia đình phải đóng góp. Kumbhaghosaka không có tiền mặt sẳn sàng cho dịp này. Vì vậy, anh ta buộc phải lấy một số đồng xu từ kho báu của mình. Khi những đồng tiền này được giao cho người hầu gái, cô ấy thay thế chúng bằng tiền của mình và gửi những đồng xu này cho nhà vua. Sau một thời gian, nhà vua cử một số người đàn ông và triệu tập anh ta đến triều đình. Kumbhaghosaka rất miễn cưỡng đi cùng những người đàn ông.

Tại cung điện, nhà vua yêu cầu anh ta nói ra sự thật và bảo đảm rằng số tài sản của anh sẽ không bị tổn hại. Kumbhaghosaka sau đó thừa nhận rằng những đồng xu Kahapana (một loại tiền cổ Ấn Độ) đó là của anh và thừa nhận mình là con trai của chủ ngân hàng thành phố.Rajagaha, người đã chết trong trận dịch hạch hai mươi năm trước. Anh tiết lộ thêm về nơi chôn cất kho báu.

Sau đó, tất cả kho báu chôn giấu được đưa về cung điện. Nhà vua phong cho anh ta làm chủ ngân hàng và gả con gái cho.

Rồi một lần nhà vua dẫn Kumbhaghosaka đến yết kiến Đức Phật tại tu viện Vetuvana và thưa với Đức Phật rằng người thanh niên dù giàu có, đã kiếm sống như thế nào bằng nghề làm thuê, và cách vua bổ nhiệm người thanh niên này làm chủ ngân hàng ra làm sao...

Sau đó Đức Phật thốt ra bài kệ như sau:

Nếu một người có nghị lựctâm trítrong sáng trong suy nghĩlời nóiviệc làm và nếu anh ta làm mọi việc một cách cẩn trọngcân nhắckiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luât (Dhamma) và không vô tâm, sau đó danh tiếng và tài sản của người có tâm đó tăng dần lên.

Cuối bài giảng, Kumbhaghosaka đã đạt được quả vị Dự Lưu (Sotapatti).  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 701)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 783)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 998)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 804)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 836)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 960)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 911)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 886)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1147)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 918)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1158)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1618)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1487)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1367)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1382)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant