Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Là Tánh Như

07 Tháng Mười Hai 202211:36(Xem: 1739)
Tánh Không Là Tánh Như

Tánh Không Là Tánh Như

Nguyễn Thế Đăng

 
Tánh Không Là Tánh Như


Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánhvô sở hữubất khả đắcvô sanh, như huyễn… Điều đó khiến người học dễ tưởng rằng tánh Không chỉ hoàn toàn là phủ định.

Thật ra, các kinh còn nói đến tánh Như như một khẳng định. Ở đây chữ phủ định và khẳng định, tiêu cực và tích cực chỉ được dùng như một cảm giác ban đầu, chứ tánh Không và tánh Như thì vượt khỏi mọi khái niệm thường tục.

Tánh Như không những được đề cập trong nhiều phẩm của các bộ Bát nhã, mà còn có những phẩm nói riêng về Như, chẳng hạn phẩm Đại Như thứ 54 Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Tiểu Như và phẩm Đại Như trong Kinh Bát nhã ba la mật tiểu phẩmphẩm Chân Như thứ 16 trong Kinh Phật thuyết Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật, phẩm Chân Như ở Hội thứ 4 và Hội thứ 5 Kinh Đại Bát nhã ba la mật đa 600 quyển do ngài Huyền Trang dịch.

Như, như như tánh, chân như, tiếng Sanskrit là tathataLiên quan đến “như” còn có chữ “như thật”, yathabhutaĐức PhậtNhư Lai, cũng có chữ Như này, Tathagata.

 

Sau đây sẽ trích một đoạn trong kinh Đại Bát nhã để tìm hiểu về Như hay tánh Như.

Đức Phật dạy: Lại nữa, Tu Bồ Đề! Phật biết rõ tướng sắc, biết rõ tướng sắc thế nào? Chính là tướng Như: như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc. Tướng sắc cũng như vậy, cũng chẳng hoại cho đến cũng không có đắc.

Tu Bồ Đề, Phật biết rõ tướng thọ, tưởng, hành, thức. Biết tướng thọ tưởng hành thức thế nào? Chính là tướng Như: như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc. Tướng thọ tưởng hành thức cũng như vậy, cũng chẳng hoại cho đến cũng không có đắc.

Như vậy, Tu Bồ Đề, Phật biết rõ chúng sanh tướng Như và tâm sở khởi lặng, co giãn của chúng sanh là tướng Như, năm uẩn tướng Như, các hành tướng Như, cũng chính là tướng Như của tất cả các pháp.

Tướng Như của tất cả các pháp là gì? Đó là sáu ba la mật tướng Như, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo tướng Như, tức là mười tám Không tướng Như, tức là tám bội xả tướng Như, tức là chín thứ đệ định tướng Như, tức là mười trí lực tướng Như, tức là bốn vô uýbốn vô ngại trí, đại từ đại bimười tám pháp bất cọng tướng Như. Tức là nhất thiết chủng trí tướng Như. Tức là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gianpháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp quá khứvị laihiện tạipháp hữu vi vô vi tướng Như.

Tức là quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Độc Giác Phật, quả Vô thượng Giác ngộ và chư Phật tướng Như. Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp.

Phật do Bát nhã ba la mật biết được tướng Như ấy. Vì thế Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật hay hiển thị tướng thế gian.

Thế nên, Tu Bồ Đề! Phật biết rõ tất cả các pháp là tướng Như, chẳng phải tướng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì được tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

(Phẩm Phật Mẫu thứ 48).

Đây là một đoạn kinh nói về Như, hầu như có trong tất cả các Kinh Bát nhã ba la mật. Sau đây chúng ta tìm hiểu vài điểm chính của lời Phật giảng nói trong đoạn kinh.

 

“Tướng sắc thọ tưởng hành thức chính là tướng Như”. Sắc thọ tưởng hành thức là những yếu tố cấu thành thân (sắc) và tâm của một con người, và nói rộng ra, của chúng sanh. Chúng là tướng Như, chúng chính là thực tại tối hậu Như, đó là cái thấy của bậc giác ngộ.

Tướng Như ấy là thế nào? Kinh nói: “Tướng Như là như như chẳng hoại, không có phân biệt, không có tướng, không có nhớ tưởng, không có hý luận, không có đắc”. Tướng Như là thật tướng của tất cả mọi sự, vẫn luôn luôn như vậy, xưa nay và mai sau vẫn như vậy. Thậm chí “tướng bất thiện, pháp thế gian hữu lậu là tướng Như”. Tóm lại thật tướng của cái gọi là sanh tử là tướng Như thanh tịnh.

Thế thì tại sao chúng ta không thấy, không kinh nghiệm được thật tướng Như? Vì suy nghĩ và hành động của chúng ta ngược lại với thật tướng Như. Bằng phân biệt, nhớ tưởng, hý luận, tham sở đắc… chúng ta đã chia cắt, phân mảnh một cách giả tạo thực tại Như, do đó thực tại Như trở thành phân mảnh, có thời gian và không gian ngăn cách. Tướng Như trở thành bất tịnh với chúng ta vì vô minh phân biệt của chúng taVí như một tấm gương trong sáng (tướng Như) trong đó mọi hình bóng đều là tấm gương, đều là tướng Như. Nhưng tâm thức chúng ta đã chia cắt phân mảnh từng hình bóng riêng biệt, xa cách nhau. Hình bóng này xa cách hình bóng khác, đó là không gian và thời gian do chúng ta tự tạo. Và cái “không có tướng, như như chẳng hoại”, trở thành các tướng có sanh diệt.

Phật biết rõ chúng sanh tướng Như và tâm sở khởi lặng, co giãn của chúng sanh là tướng Như, năm uẩn tướng Như, các hành tướng Như, cũng chính là tướng Như của tất cả các pháp”. Chúng sanh là tướng Như, không những thế, tất cả những tâm động và loạn (tâm sở khởi - lặng, co – giãn) của chúng sanh cũng là tướng Như. Như vậy, Đức Phật vẫn ở với chúng sanh để độ thoát cho họ cho đến những đời vị lai nhưng nhờ cái thấy tất cả chúng sanh và tất cả phiền não của họ là tướng Như, nên làm việc với họ mà vẫn giải thoát. Không phải giải thoát là thoát khỏi chúng sanh, không có chúng sanh nữa mà giải thoát là thấy chúng sanh trong thật tướng Như của họ.

Tất cả chúng sanh hữu tình là tướng Như, mà tất cả các pháp, các sự vật, các hiện hữu đều là tướng Như. Tất cả chúng sanhthế giớithời gian không gian là tướng Như. Tướng Như đã biến tất cả chúng sanh, tất cả các cõi thành một cõi thanh tịnhNhất Như.

 

Đó là sáu ba la mật tướng Như, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo tướng Như, cho đến mười lựcđại từ đại bi tướng Như, tức là Nhất thiết chủng trí tướng Như. Tức là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gianpháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp quá khứ vị lai hiện tạipháp hữu vipháp vô vi tướng Như.

Tức là quả Tu Đà Hoàn cho đến quả A La HánĐộc Giác Phật, quả Giác ngộ Vô thượng và chư Phật tướng Như. Chư Phật tướng Như đều là tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp”.

Tướng Như bao trùm và  tất cả các pháp thế gian hữu lậu, tức chúng sanh phiền não và thế giới chúng sanh bất tịnh và xuất thế gian vô lậu, tức các pháp thực hành và các quả thánh cho đến chư Phật. Tướng Như bao trùm và  tất cả quá khứvị laihiện tại. Như thế tướng Như bao trùm và  tất cả không gian và thời gian trong một “tướng Nhất Như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận chẳng hoại”. Đây gọi là tướng Như của tất cả các pháp.

Thế nghĩa là tất cả các pháp vốn là tướng Như, chúng sanh chỉ vì suy nghĩ và hành động sai lầm mà thành ra sanh tử khổ đau. Thế nên qua giai đoạn này chúng ta bắt đầu hiểu thực hành và mục đích của nó là gì: với những khả năng sẳn có của tâm thức là sự tập trung (thiền định) và sự quan sát, tưởng tượng (thiền quán) và hành động, làm việc hàng ngày trong một cái thấy sơ khởi về tướng Như của tất cả các pháp thì đó là con đường thực hành.

 

Phật do Bát nhã ba la mật biết được tướng Như ấy. Vì thế Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian. Chư Phật biết rõ tất cả pháp là tướng Như, chẳng phải tướng riêng khác, chẳng phải chẳng Như. Vì được tướng Như như vậy nên Phật được gọi là Như Lai”.

“Tướng Như hay hiển thị tướng thế gian”: tướng Như là thật tướng của thế gian nên hay hiển thị tướng thế gian. Vị hoàn toàn chứng đắc tướng Như của tất cả pháp là một vị Phật, là Như Lai. Ở đây kinh nói rõ ràng ý nghĩa của Như Lai, là vị chứng đắc rốt ráo tướng Như của chúng sanhthế giới và các bậc giải thoát.

 

Như, tánh Như, chân như (tathata) và như thật (yathabhuta) có nghĩa giống nhau. Trong kinh Đại Bát Nhãphẩm Tự thứ nhất, có đề cập đến “như thật trí” là trí thứ mười một của Đại Bồ Tát như sau:

“Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tônđại Bồ tát muốn dùng nhất thiết chủng trí để biết tất cả pháp phải tu tập Bát nhã ba la mật thế nào?

….

Cũng đầy đủ mười một trí: Pháp trí, tỷ trí, tha tâm tríthế tríkhổ trítập trídiệt tríđạo trítận trívô sanh trínhư thật trí”.

Như thật trí thì “biết như thật”. Trong phẩm Phật Mẫu (tương đương với phẩm Hiển thị thế gian của kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật đa), có nhiều câu theo dạng “Do Bát nhã ba la mật, Phật như thật biết…”. Sau các đoạn này kinh nói, “Phật như thật biết rõ tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tướng Như”.

Như thật trí là trí của Phật, trí ấy như thật biết tất cả các pháp là tướng Như. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2225)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2353)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2668)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2711)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2995)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4099)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3308)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3002)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2388)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2690)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2818)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2510)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2777)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant