Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Và Khoa Học

04 Tháng Giêng 202311:57(Xem: 1921)
Phật Giáo Và Khoa Học
Phật Giáo Và Khoa Học

 Alexander Berzin

hinh phat

Hỏi: Xin ông nói về mối liên hệ giữa đạo Phật và khoa học và cho một vài ví dụ điển hình về những điểm tương đồng.


Tiến sĩ
 Berzin:
 Cho đến nay, những cuộc đối thoại giữa Đức Dalai Lama và các nhà khoa học chủ yếu chú trọng về ba lãnh vực. Một là đề tài vật lý thiên văntìm hiểu xem vũ trụ đã được phát triển như thế nào. Vũ trụ có khởi điểm không? Vũ trụ được tạo ra hay là một quá trình bất tận? Đề tài khác là vật lý hạt, liên quan đến kết cấu của nguyên tử và vật chất. Thứ ba là khoa học thần kinhnghiên cứu về sự vận hành của não bộ. Đây là ba lãnh vực chánh.

Một trong những kết luận mà Phật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa. Trong khoa học, theo lý thuyết bảo tồn vật chất và năng lượng thì chúng chỉ biến đổi chứ không được tạo ra, cũng không bị hủy diệtPhật tử hoàn toàn đồng ý với điều này và cho rằng tâm cũng như thế. “Tâm”, trong Phật giáo là sự ý thức về các pháp, hữu tình hoặc vô tình. Ý thức không thể sanh hay diệt, chỉ có biến đổi mà thôi. Vì vậytái sanh chỉ là sự thay đổi của dòng tâm thức liên tục của một cá thể mà hiện nay, cơ sở vật chất của nó là một thân khác.

Các nhà vật lý hạt nhấn mạnh về vai trò của người quan sát, khi định nghĩa bất cứ điều gì. Ví dụ, ở một khía cạnh nào đó, ánh sáng được xem như vật chất; và từ bình diện khác, nó là năng lượng. Ánh sáng hiện hữu dưới hiện tương nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là khuôn khổ khái niệm mà người nghiên cứu dùng để phân tích nó. Vì vậy, các pháp tự chúng vốn không tồn tại một cách cố hữu như thế này hoặc thế kia, mà không liên hệ tới tâm thức nhận biết chúng.

Phật giáo cũng khẳng định như vậy: Các pháp hiện hữu tùy vào người quan sát và khuôn khổ khái niệm dùng để phân tích chúng. Ví dụ một vấn đề được xem là nan giải hay không tùy thuộc hoàn toàn vào người trong cuộc. Với một người có khái niệm rằng: “Trường hợp này không thể giải quyết được, mình không thể làm gì được,” thì vấn đề trở nên bế tắc. Trái lại, nếu người khác nghĩ rằng: “Vấn đề này thật là rắc rối và phức tạp, nhưng ta sẽ có cách khác để đối phó với nó”, thế thì người này cởi mở hơn trong việc hóa giải vấn đề. Một vấn đề có thể rất nan giải cho nguời này nhưng đối với người khác lại không đáng kể. Nó tùy thuộc vào người quan sát, chứ các vấn đề tự chúng không to lớn như vậy. Vì vậy, khoa học và Phật giáo đều có cùng một kết luận: Mọi hiện tượng tồn tại bằng những cách khác nhau, tùy thuộc vào người quan sát chúng.

Tương tự như thế, các nhà thần kinh học và các Phật tử cũng ghi nhận mối tương quan duyên khởi của vạn pháp. Ví dụ như, khi các nhà thần kinh học quan sát não bộ để tìm ra cơ chế nào giúp ta quyết định mọi việc, thì họ không tìm ra một “bộ phận tạo quyết định” riêng rẽ nào cả. Trong đầu ta không có một con người bé nhỏ nào gọi là ‘tôi’ để thâu nhận các thông tin từ mắt, tai và v.v… như trên màn ảnh của máy điện tử và có thể quyết định bằng cách nhấn một cái nút để tay chân hoạt động như thế này hay thế kia. Thật ra, mọi quyết định đều là kết quả từ sự tương tác rất phức tạp của một mạng lưới khổng lồ của dây thần kinh, hóa chất và các dòng điện. Cộng tác với nhau, chúng tạo ra một kết quả, đó là một quyết định. Quá trình này xảy ra mà không hề có một cá thể nào tự tạo ra quyết định cả. Phật giáo cũng nhấn mạnh điều này: Không có một cái “tôi” thường hằng và vững chắc nào ở trong đầu ta để tạo ra quyết định cho ta cả. Theo thói quenchúng ta nói: “Tôi đang cảm nghiệm điều này. Tôi đang làm việc nọ”, nhưng thật ra đó là kết quả của sự tương tác vô cùng phức tạp giữa nhiều yếu tốPhật giáo và khoa học rất giống nhau ở điểm này.

Thời gian là gì? Sinh viên chúng tôi phải đến lớp đúng giờ, phải có đủ thì giờ để chuẩn bị cho việc học hay làm tròn trách nhiệm công việc. Chúng tôi phải hiểu về thời gian như thế nào để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn?

Trong đạo Phậtthời gian được định nghĩa như “một thước đo của sự thay đổi”. Ta có thể đo lường sự thay đổi bằng sự vận hành của các hành tinh hay vị trí của mặt trời trong không gian. Ta có thể đo nó bằng số lớp dự thính mà ta đã tham dự ở giảng đường trong một học kỳ – ta đã dự được mười hai lớp và còn lại hai lớp nữa. Ta cũng có thể đo nó bằng chu kỳ vật lý, chu kỳ của cơ thể như chu kỳ kinh nguyệt, bằng số hơi thở của chúng ta và v.v… Đây là những cách khác nhau để đo lường sự thay đổi và thời gian là thước đo của sự biến đổiđơn giản là như thế.

Thời gian có hiện hữu, nhưng có ảnh hưởng khác nhau đối với chúng tatùy theo cách ta nghĩ về nó. Ví dụ chúng ta nghĩ, “Chỉ còn vài ngày nữa là tới ngày thi rồi!”. Vì ta nghĩ đến thời gian như một con số nhỏ, ta lo sợ vì không có đủ thì giờ. Nhưng nếu ta nghĩ theo cách khác, “Còn đến 24 tiếng nữa,” thì ta sẽ thấy còn đủ thì giờ để chuẩn bị cho việc thi cử. Điều này là vấn đề tâm lýtùy theo cách nhìn của chúng ta. Nếu ta xem thời gian như một cái gì rắn chắc và nặng trĩu thì ta sẽ bị nó áp đảo và sẽ không có đủ thời giờ. Nhưng nếu ta nhìn nó một cách cởi mở, xem ta có được bao nhiêu thời giờ, thì ta sẽ cố sử dụng nó một cách tích cực, thay vì cảm thấy phiền muộn.

Phật giáo dựa vào luận lý học và sự suy luận rất nhiều. Như vậy có khi nào Phật tử cần có đức tin như trong các tôn giáo khác không?


Phật giáo
 không đòi hỏi điều này. Ta có thể thấy được điều này từ định nghĩa về những gì hiện hữu. Những gì hiện hữu là “những gì ta biết được”, nếu không phải vậy thì nó sẽ không hiện hữu, ví dụ như lông rùa, sừng thỏ, môi gà. Ta có thể tưởng tượng gà có môi của người; ta có thể tưởng tượng một hình vẽ hoạt họa của con gà với cặp môi; nhưng ta không thể thấy môi nơi con gà, vì điều này không có thật. Nó không hiện hữu, vì nó không hề được biết đến.

Điều này ngụ ý là ta có thể biết được tất cả những gì hiện hữu. Tâm của ta, hay hoạt động của sự ý thức về các hiện tượng, có thể hiểu biết tất cả. Kinh điển có dạy rằng sự tuyệt đối vượt ra ngoài sự hiểu biết và ngôn ngữ thế gian. Trước hết, tôi không thích dịch từ ngữ này là ‘tuyệt đối’ bằng Anh ngữ, vì nó có ý nghĩa như một cái gì ngoài tầm với của chúng ta, như một cái gì xa tít ở trên trời. Tôi thích dịch nó như là ‘sự thật sâu sắc nhất về vạn vật’. Sự thật sâu sắc nhất này hiện hữu, nhưng nó vượt khỏi tâm ta, vượt qua khái niệm và ngôn từ, tức là ngoài sự nhận thức thường tình của con ngườiNgôn ngữ và khái niệm chỉ diễn tả những gì hiện hữu trong thể loại trắng và đen, người tốt, người xấu, khôn và dại. Ngụ ý của việc sử dụng ngôn ngữ là mọi vật hiện hữu theo các phân loại rõ ràng và độc lập. Ví dụ như “Anh này thật ngu ngốc. Anh ta không thể làm điều gì đúng cả.”, “Đây là một vĩ nhân”. Nhận thức được thực tại là thấy các pháp không hiện hữu theo sự tưởng tượng của ta, không thể xảy ra được như trên đây, theo cái nhìn trắng và đen. Các pháp uyển chuyển hơn và luôn sống động. Một người không thể làm được một việc gì hiện giờ, không có nghĩa là họ lúc nào cũng đần độn, vì họ có thể làm những việc khác, trong vai trò của một người bạn, một người cha hay mẹ và v.v..

Như thế, khi ta nói rằng điều sâu sắc nhất của các pháp là chúng hiện hữu vượt trên tâm thức và ngôn từ, ta đang nói đến sự thật là các pháp không hiện hữu theo cách ngôn ngữ và khái niệm diễn tả. Tâm ta có đủ khả năng để chấp nhận điều này.

Không phải vì ta không hiểu được một vài điều gì đó mà ta cần có đức tin để tin tưởng nó. Phật giáo không bao giờ đòi hỏi ta tin tưởng một cách mù quángTrái lạiĐức Phật còn nói: “Đừng vì kính trọng ta mà các con tin những gì ta nói. Hãy thử nghiệm chúng như khi các con đi mua vàng.” Điều này đúng ở mọi cấp độ.

Sự lý luận về một điều nào đó có thể không được rõ ràng đối với ta ngay lập tứcTuy nhiên, ta không thể chối bỏ một quan điểm, chỉ vì ta chưa hiểu nó. Nếu ta kiên nhẫn học hỏi và nghiên cứu, những gì trước kia ta không hiểu, có thể trở nên hợp lý.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 790)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant