Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhớ Nghĩ Ân Đức Của Đức Phật Để Luôn Phát Nguyện Tu Tập

16 Tháng Hai 202317:36(Xem: 1945)
Nhớ Nghĩ Ân Đức Của Đức Phật Để Luôn Phát Nguyện Tu Tập
Nhớ Nghĩ Ân Đức Của Đức Phật Để Luôn Phát Nguyện Tu Tập

Nguyệt Đông

buong bo

“Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta tạo nghiệp, Đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành. Đời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ” [1]. Thật xúc động, bùi ngùi khi nói về những ân đức của Phật thật bao la rộng lớn của đại sư Thật Hiền, không lời lẽ nào có thể diễn tả hết. Công ơn cha mẹ sinh ra đã khó báo đáp đến nỗi ngôn ngữ trần gian là túi rách đựng không đầy hai tiếng mẹ cha. Vậy mà, ân đức của Phật lại còn cao cả gấp vạn lần hơn thế. Cho dù cha mẹ cho ta hình hài nhưng thương yêu ta chỉ một đời, còn Phật thương ta đời đời không rời bỏ.

Thử hỏi trên thế gian này, mấy ai được như vậy, hay bất kì ai thương ta đều có sự ràng buộc của luyến ái, của chấp thủ đối đãi. Cả chính cha mẹ cũng không ngoại lệ, khi thấy con vong ân bội nghĩa thì hờn thì giận, lòng thương mỏng dần và ít đi; còn chư Phật không phải cách đó, thấy những kẻ ấy lòng thương càng nặng hơn, đến nỗi vào cả trong vùng lửa dữ dội của địa ngục vô gián mà thay hoj chịu vô lượng khổ. Do đó, mà biết chư Phật thương chúng sinh quá hơn cha mẹ thương con. Nhưng chúng sinhu mê che mất giác tuệ, vì phiền não mờ mất tâm trí, không biết quay về chánh đạo, quỳ dưới chân Ngài, xin một lần quy ngưỡng

SỰ XUẤT HIỆN VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT ĐEM ÁNH SÁNG ĐẾN CHO NHÂN LOẠI

Khi Phật tại thế, trước đó có rất nhiều vị giáo chủ tôn thờ những triết thuyết riêng biệt nhưng vẫn không tìm được lối đi cho con người thoát khỏi khổ đau đạt đến hạnh phúc đích thực. Đến khi sự xuất hiện của Đức Phật như sự kiện hy hữu có một không hai, không có vị Phật thứ hai nào xuất hiện trong suốt hiền kiếp Ngài tại thế. Điều này như lần nữa tôn vinh lên sự xuất hiện vĩ đại của Đức Phật với những gì Ngài đã mang đến cho nhân loạithế giới này. “Một người, khi xuất hiện ở đời, đem lại hạnh phúcan lạc cho số đông, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác” [2].

Sau khi thành đạo, giáo pháp của Ngài như vầng dương ló lạng, vén tan lớp mây mù u ám trên bầu trời tâm thức Ấn Độ. Ở trên cao kia, trên thượng tầng khí quyển ấy chẳng có thần linh, đấng Phạm Thiên nào có uy quyền ban phước giáng họa cho con người cả. Chỉ là một loại chúng sanh có thân xác vi tế, phước báu hơn cõi người nhưng vẫn còn chịu chi phối bởi vòng nhân quả. Chính sự xuất hiện vĩ đại của Đức Phật đã đánh thức nhân loại sau một giấc ngủ dài u u minh minh dưới lớp khói sương của thần linh. Sự giác ngộ của Ngài, chúng ta nhìn thấy chỉ trong gang tấc nhưng đó lại là một quá trình dài bao nhiêu năm khổ cực trên xứ Ấn hoặc nhiều hơn thế là trải qua trăm nghìn kiếp tu tập, cảnh giới khác nhau. Với nhiều vị thầy qua nhiều phương pháp tu tập, nhiều cách sống, nhiều cách thực tập, đến một ngày thân hình tráng kiện chỉ còn là bộ xương bọc da. Ngài không nản chí vẫn quyết tâm tự tìm một lối đi riêng, lối đi trung dung giữa hai cực đoan ép xácthụ hưởng. Sau khi hiểu ra được sự vận hành vạn vật, Ngài không còn sống khổ hạnh như lối trước đây: ngày ăn một hạt mè, dang tay gồng chân đứng giữa trời nắng để tự hành xác.

Ngài bắt đầu quay lại cuộc sống mới, cuộc sống trung dung hài hòa giữ cân bằng, không sống cực khổ cũng không sống sung sướng. Lần quyết tâm cuối cùng với lời phát nguyện không chứng thành đạo quả không rời gốc cây này. Thế là cuộc đấu kéo dài 49 ngày với nhiều thử thách cám dỗ, Ngài vẫn an nhiên tĩnh tọa nhập vào đại định phá tan bóng tối u minh, làm hiển lộ ánh sáng trí tuệ. Sự xuất hiện của Ngài, tựa như có người dựng lại ngay ngắn một vật gì đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín, hay vạch đường chỉ lối cho người lạc bước, hay cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có thể trông thấy. Vị cha lành của chư Thiênloài người, vì lòng thương tưởng đến với đời, vì muốn chúng sanh thoát khổ được vui. 

GIA TÀI PHÁP BẢO MÀ NGÀI ĐỂ LẠI

Ròng rã 45 năm khắp miền Trung Ấn giáo hóa độ sanh không từ mệt nhọc, thời tiết khắc nghiệt, trái gió trở trời, Ngài vẫn đều đặn ngày ngày hướng dẫn Tăng đoàn, đệ tử cư sĩ học pháp hành pháp. Đến nay, có thể nói, gia tài Pháp bảo trải qua nhiều thăng trầm lịch sử đã được lưu giữ bằng chữ viếtbảo tồn một cách kính trọng. Nhiều lần Đức Phật trăn trở và khuyên răn chúng Tăng: “Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật” [3], vì thời đó có một số tỳ kheo trẻ chưa thuần thục pháp nên dễ khởi tâm ưa thích danh dự lợi dưỡngtrở thành người thừa kế tài vật. Chính vì sợ hàng đệ tử bơ vơ, lạc lõng không biết nương tựa vào đâu khi Ngài vắng mặt trên trần gian này, nên trong những phút giây cuối cùng, Ngài vẫn không quên dặn dò chúng đệ tử: “Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Đạo Sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo Sư (Giáo chủ)”. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo Sư của các Ngươi” [4]. Bởi những ai thực hành chánh pháp, sống với pháp thể nghiệm được pháp, tịnh hóa thân tâm được an lạc trong đời sống hằng ngày thì ngay lúc đó như có Phật bên đời, như lời dạy: “Ai thấy Pháp người ấy thấy Ta, ai thấy Ta người ấy thấy Pháp” [5] .

Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảngtruyền bá đầy đủ để tự chứng ngộ, cho quả tức thì, khuyến khích suy nghiệm tìm tòi đưa người đến bến bờ Niết bàn. Nói là gia tài Ngài để lại, không phải chúng ta vinh vào đó rồi không nỗ lực cố gắng, ỷ lại sống buông tuồng thì sẽ không thu hoạch được trái lành quả ngọt. Gia tài Pháp bảo là để thừa hưởng, thừa hưởng thì phải biết giữ gìn và phát huy hơn nữa để không bị lu mờ, mất đi. Thừa tự, thì phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy là ngọn đèn của chính mình, hãy thắp lên ngọn đèn của chánh pháp, thắp lên ánh sáng của tình yêu thương và sự tỉnh thức. Đây cũng là lời di giáo, những mong chờ sau cùng của Ngài đối với hàng đệ tử trước khi nhập diệt

Thắp lên ngọn đèn chánh pháp trong tâm, chánh pháp bao gồm những lời dạy, pháp mônđức Phật đã phương tiện giảng dạy giúp chúng sanh thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống tạm bợ này, như: Bát chánh đạo, Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã,…. Bởi theo Ngài, con người chỉ có thể chuyển hóa khổ đau bằng trí tuệ, chứ không thể bằng niềm tin hay thần thánh hóa. Chính những giáo lý Ngài phương tiện dẫn dắt giúp con người đoạn trừ được các lậu hoặc, kiết sửhiển lộ được tánh sáng tỉnh thức, chấm dứt cội nguồn sanh tử luân hồi. Quan trọng là Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực ngay hiện tại, có kết quả ngay tức thì, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình giác hiểu.

NGÀI LÀ ĐIỂM TỰA TÂM LINH CỦA ĐỜI CON

Nhờ có Đức Phật, chúng ta biết tu để điều chỉnh, sửa đổi lời nói, hành vi, ý nghĩ của mình. Nhờ có Đức Phật, chúng ta biết Phật pháp, biết làm được nhiều công đức, biết làm người có giá trị, sống có ý nghĩa, có tư cách con người. Nhờ những lời dạy cao quý của Ngài mà chúng ta có được cuộc sống đúng hơn giữa trần gian tăm tối; biết thương yêu nhau hơn giữa biển đời đau khổ; bình an hơn giữa luân hồi đầy nghịch cảnh. Chính nhờ có Phật mà chúng ta đủ nghị lực, đủ mạnh mẽ đi vào đời, dám đối diện với cuộc đời, vượt qua những tâm lý sợ hại thấp kém, không còn sợ những ánh mắt nhòm ngó không tên, không còn sợ những lời nói vô tình phớt ngang hay những lời có chủ đích và thậm chí là chuyển hóa được cuộc đời. Chúng ta không còn bị vùi lấp bởi những thú vui hào nhoáng, những lối sống thấp hèn. Ta còn có khả năng thiết lập được lối sống của tình thương và sự hiểu biết cho chính mình.

Nhờ có Phật mà chúng ta hiểu tường tận luật nhân quả, mạnh dạn chấp nhận những lỗi lầm đã gây ra và sẵn sàng đón nhận những nghiệp xấu đến với mình. Nhưng không phải vì vậy mà khuất phục trước số phận, nghiệp cứ trả, phước cứ làm, đạo thì vẫn cứ tu. Dẫu chúng ta biết rằng Phật không còn tại thế, nhưng Ngài vẫn gần bên, che chở, bảo bọc chỉ vì Ngài không xuất hiện cho chúng ta thấy. Nhưng trong khoảng không vô hình nào đó, chúng ta vẫn nhận được tình thương của Ngài bủa khắp. Ngài vẫn ở đó, vẫn ngày ngày xem những đứa con thơ dại của mình có tu tập, có phát triển đời sống tâm linh không hay vẫn bị dục lạc lôi kéo? 

Những công hạnh phi thườngĐức Phật dày công tích lũy từ vô lượng kiếp đã kết tinh thành cuộc đời siêu việt của một Đấng Chánh Giác, đã kết tinh thành vô số lời dạy quý giá được tôn thờ là vị thầy của cả trời và người. Chúng ta nương tựa vào công đức và lời dạy của Phật để thoát dần ra khỏi thân phận đắng cay và hèn kém của kiếp người. Vậy nên việc làm thiết thực nhất hiện nay, mỗi ngày chúng ta phải học pháp, nghe pháp hành pháp. Pháp là những điều cao quý, những điều hay lẽ phải, những chân lý thiết thực hiện tại, mỗi chúng ta ai cũng có thể nghe và hiểu được. Bên cạnh chúng ta muốn đền đáp công ơn của Đức Như Lai, trong đời này phải dũng mãnh, tinh tấn gắng chịu khổ nhọc, không tiếc thân mạng gây dựng Tam Bảo, hoằng dương giáo pháp, hoá độ chúng sanh, đồng vào ngôi Chánh giác.

Sứ mạnghạnh nguyện của mỗi chúng ta đối với cuộc đời không hề nhỏ, nếu sống thật sự với hạnh nguyện “phụng sự chúng sanhcúng dường chư Phật” thì không có giây phút nào buông lơi, giãi đãi để thời gian trôi qua vô uổng. Từng giây, từng phút luôn cống hiến tâm lực, trí lực để góp phần làm đẹp cuộc đời, dứt oan trái khổ đau, hận thù ganh ghét để cùng chung sống dưới mái nhà Phật pháp, được sự gia hộ của chư Phật, Bồ tát

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Đại sư Thật Hiền soạn (2012), Khuyến phát bồ đề tâm văn, tr.23

[2] Hòa thượng Thích Minh Châu (2016), Kinh Tăng Chi bộ, chương 1, phẩm Một người, tr.56

[3] Hòa thượng Thích Minh Châu (2016), Kinh Trung bộ, Kinh Thừa tự pháp, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.31

[4] Hòa thượng Thích Minh Châu (2016), Kinh Trường bộ, kinh Đại bát niết bàn, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.337

[5] Hòa thượng Thích Minh Châu (2016), Kinh Tương Ưng Bộ I, Kinh Vakkali, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.742.
(Trích từ tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 405)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2545)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2242)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2544)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3272)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2559)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2233)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2594)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2663)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2729)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2578)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2785)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3086)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2297)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2531)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2884)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3200)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2601)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2399)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2493)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2702)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2836)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2963)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2517)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant