Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

28 Tháng Sáu 202318:40(Xem: 1380)
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

Vĩnh Thông

Hành Trì Phật Pháp Là Gì

Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật trải khắp các xứ sở quanh vùng Đông Bắc Ấn Độ.

Chúng ta có cơ hội lắng nghe những cuộc thảo luận, những lời giáo hóa, những cách hành xử… mà Đức Thế Tôn dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Đồng thời, có cả những lời tự thuật về chính cuộc đời Ngài.

Trước nay, hầu hết mọi người đều ca ngợi rằng Đức Phật từ bỏ ngai vàng là sự từ bỏ vĩ đại. Tuy nhiên, Ngài không chỉ có một lần từ bỏ và đó cũng không hẳn là sự từ bỏ lớn nhất, mà còn nhiều sự từ bỏ khác. Trong đó, Đức Thế Tôn có bốn sự từ bỏ cao thượng, để lại bài học quý giá, đáng cho người đời sau suy gẫm.

Thứ nhất, từ bỏ đời sống phú quý

Chúng ta đã biết, Đức Phật vốn là Thái tử Siddhāttha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm), con vua Suddhōdana (Tịnh Phạn), tiểu quốc Sakya (Thích Ca). Từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành, Thái tử sống trong sự sung túc cùng cực về vật chất. Ngài có tài sản, danh vọng, địa vị, gia đình… và trên hết là có cả một vương quốc.

Đó là những điều mà bao nhiêu con người trên địa cầu này mải miết tìm kiếm. Trái lại, Thái tử có tất cả nhưng lại từ bỏ tất cả. Ngài nhận ra rằng con người bị chi phối bởi sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô… nhưng chính con người lại làm nô lệ cho sự sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô…

Trong kinh Thánh cầu, Đức Phật tự thuật: “Khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình1”.

Do xuất thân đặc biệt như thế, nên việc Bồ-tát xuất gia được mọi người đánh giá là sự từ bỏ hy hữu. Bởi, mấy ai có thể từ bỏ đời sống hưởng thụ dục lạc. Tuy nhiên, tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ thấy nhiều sự từ bỏ khác cao thượng không kém.

Thứ hai, từ bỏ địa vị lãnh đạo tôn giáo

Khi Bồ-tát theo học với hai đạo sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta, Ngài nhanh chóng thông suốt giáo lýchứng đắc các thiền chứng của họ. Thấy được tố chất đặc biệt của Bồ-tát, cả hai người thầy đều mời Ngài cùng lãnh đạo hội chúng với họ.

Ngài một lần nữa từ chối, vì các thành quả đó chưa đi đến mục tiêu tối thượnggiải thoát: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn”2 (Kinh Thánh cầu).

Điều này khiến chúng ta thấy rõ Bồ-tát xuất gia không phải vì để trở thành nhà lãnh đạo tôn giáo. Mặc dầu trên thực tế, sau khi giác ngộ, Đức Phật thật sự trở thành đạo sư, nhà lãnh đạo tôn giáo. Song, đó không phải mục đích của Ngài. Bởi, nếu đó là mục đích, thì trước đó Ngài đã chấp nhận lời mời lãnh đạo hội chúng từ hai vị thầy mình để đạt được mục đích rồi.

Thứ ba, từ bỏ các phương pháp sai lầm

Sau khi từ giã hai vị thầy, Bồ-tát tu khổ hạnh cùng năm vị đạo sĩ gồm Koṇḍañña (Kiều-trần-như), Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, Assaji. Thời bấy giờ, lối tu khổ hạnh đang trở thành trào lưu thịnh hành trong đời sống tôn giáo Ấn Độ. Ngài đã thực hành khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư đến độ vượt hơn sự nỗ lực của năm bạn cùng tu.

Tuy vậy, Bồ-tát nhận thấy rằng: “Với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh”3 (Đại kinh Saccaka). Ngược lại, một thể trạng kiệt quệ không thể nào đưa đến giác ngộ. Do đó, Ngài từ bỏ phương pháp khổ hạnh mà mình đang thực hành.

Thấy được sự sai lầm, công khai thừa nhận mình sai lầm, mạnh dạn bước khỏi sai lầm - đây là điều rất đáng để chúng ta nghĩ suy. Từ xưa đến nay, nhiều người đi vào những con đường sai lầm, sau đó biết rõ mình đang sai lầm, nhưng không mấy ai dám thừa nhận điều đó và bước ra khỏi con đường ấy. Một mặt, có thể con đường ấy mang đến cho họ những lợi ích nào đó, khiến họ không nỡ từ bỏ. Mặt khác, khi bước ra khỏi sai lầm, họ sợ bị người đời chế giễu, vì sĩ diện nên họ không đủ dũng khí để làm điều đó.

Thứ tư, từ bỏ sự trói buộc của chân lý

Chân lý ra đời để cởi trói cho con người, chứ không phải buộc chặt thêm con người. Nếu con người vận dụng chân lý một cách đúng đắnlinh hoạt sẽ có được hiệu quả tích cực. Trái lại, nếu con người nhân danh chân lý mà vận dụng một cách máy móc và sai lầm sẽ biến chính mình trở thành nô lệ. Song, không phải ai cũng có thể nhận thức rõ điều đó.

Trong kinh Ví dụ con rắn, Đức Phật tuyên bố: “Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp”4. Giáo pháp Thế Tôn cũng như chiếc bè, nếu sử dụng đúng chức năng thì sẽ phát huy hiệu quả. Chiếc bè có công dụng đưa người qua sông, không phải để vác trên vai, đội trên đầu, di chuyển trên đường bộ… Nói cách khác, không phải cứ mang chiếc bè khư khư bên mình mọi lúc, mọi nơi.

Cho nên, giáo lý nhà Phật có tính thực tiễn cao, đưa đến giải thoát con người, chứ không trói buộc con người. Đó là: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí chứng hiểu”5 (Kinh Ví dụ tấm vải).

Tóm lại, trong cuộc đời Đức Phật, nếu sự từ bỏ ngôi vua là sự từ bỏ liên quan đến vật chất, thì ba sự từ bỏ về sau là sự từ bỏ liên quan đến tinh thần. Ngài từ bỏ vị trí lãnh đạo tôn giáo vì đó không phải là mục đích tối thượng. Ngài từ bỏ phương pháp sai lầm vì nó không đưa đến mục đích tối thượng. Khi đã đạt được mục đích tối thượnggiác ngộ thì Ngài vẫn không trói buộc vào những gì đã chứng ngộ.

Cuộc đời Đức Phậtcuộc đời một vị đạo sư lớn của nhân loại. Người đời sau ghi nhận về Ngài qua cả hai phương diệnlịch sử và huyền sử. Đó cũng là điểm chung đối với các danh nhân tôn giáo lỗi lạc trên thế giới xưa nay. Tuy nhiên, nếu tạm gác qua những yếu tố mang tính huyền sử, thì cuộc đời lịch sử của Đức Phật đã để lại nhiều bài học sâu sắc, khiến chúng ta phải suy ngẫm.

_____________

1. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, tr.214; 2. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.217; 3. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.306; 4. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.179; 5. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 62.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1246)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1356)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1329)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1367)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1332)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1288)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1496)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1579)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1615)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1506)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1461)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1243)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1387)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1364)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1443)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1473)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1554)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1403)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1527)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1418)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1376)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1449)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1553)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1822)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1497)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1809)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1392)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1324)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1535)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1385)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1463)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1623)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1830)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1851)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1658)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1854)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1551)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1510)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2035)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1624)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1560)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1500)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1484)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1557)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1414)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1710)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1679)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1534)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant