Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

28 Tháng Sáu 202318:40(Xem: 1426)
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

Vĩnh Thông

Hành Trì Phật Pháp Là Gì

Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật trải khắp các xứ sở quanh vùng Đông Bắc Ấn Độ.

Chúng ta có cơ hội lắng nghe những cuộc thảo luận, những lời giáo hóa, những cách hành xử… mà Đức Thế Tôn dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Đồng thời, có cả những lời tự thuật về chính cuộc đời Ngài.

Trước nay, hầu hết mọi người đều ca ngợi rằng Đức Phật từ bỏ ngai vàng là sự từ bỏ vĩ đại. Tuy nhiên, Ngài không chỉ có một lần từ bỏ và đó cũng không hẳn là sự từ bỏ lớn nhất, mà còn nhiều sự từ bỏ khác. Trong đó, Đức Thế Tôn có bốn sự từ bỏ cao thượng, để lại bài học quý giá, đáng cho người đời sau suy gẫm.

Thứ nhất, từ bỏ đời sống phú quý

Chúng ta đã biết, Đức Phật vốn là Thái tử Siddhāttha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm), con vua Suddhōdana (Tịnh Phạn), tiểu quốc Sakya (Thích Ca). Từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành, Thái tử sống trong sự sung túc cùng cực về vật chất. Ngài có tài sản, danh vọng, địa vị, gia đình… và trên hết là có cả một vương quốc.

Đó là những điều mà bao nhiêu con người trên địa cầu này mải miết tìm kiếm. Trái lại, Thái tử có tất cả nhưng lại từ bỏ tất cả. Ngài nhận ra rằng con người bị chi phối bởi sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô… nhưng chính con người lại làm nô lệ cho sự sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô…

Trong kinh Thánh cầu, Đức Phật tự thuật: “Khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình1”.

Do xuất thân đặc biệt như thế, nên việc Bồ-tát xuất gia được mọi người đánh giá là sự từ bỏ hy hữu. Bởi, mấy ai có thể từ bỏ đời sống hưởng thụ dục lạc. Tuy nhiên, tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ thấy nhiều sự từ bỏ khác cao thượng không kém.

Thứ hai, từ bỏ địa vị lãnh đạo tôn giáo

Khi Bồ-tát theo học với hai đạo sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta, Ngài nhanh chóng thông suốt giáo lýchứng đắc các thiền chứng của họ. Thấy được tố chất đặc biệt của Bồ-tát, cả hai người thầy đều mời Ngài cùng lãnh đạo hội chúng với họ.

Ngài một lần nữa từ chối, vì các thành quả đó chưa đi đến mục tiêu tối thượnggiải thoát: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn”2 (Kinh Thánh cầu).

Điều này khiến chúng ta thấy rõ Bồ-tát xuất gia không phải vì để trở thành nhà lãnh đạo tôn giáo. Mặc dầu trên thực tế, sau khi giác ngộ, Đức Phật thật sự trở thành đạo sư, nhà lãnh đạo tôn giáo. Song, đó không phải mục đích của Ngài. Bởi, nếu đó là mục đích, thì trước đó Ngài đã chấp nhận lời mời lãnh đạo hội chúng từ hai vị thầy mình để đạt được mục đích rồi.

Thứ ba, từ bỏ các phương pháp sai lầm

Sau khi từ giã hai vị thầy, Bồ-tát tu khổ hạnh cùng năm vị đạo sĩ gồm Koṇḍañña (Kiều-trần-như), Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, Assaji. Thời bấy giờ, lối tu khổ hạnh đang trở thành trào lưu thịnh hành trong đời sống tôn giáo Ấn Độ. Ngài đã thực hành khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư đến độ vượt hơn sự nỗ lực của năm bạn cùng tu.

Tuy vậy, Bồ-tát nhận thấy rằng: “Với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh”3 (Đại kinh Saccaka). Ngược lại, một thể trạng kiệt quệ không thể nào đưa đến giác ngộ. Do đó, Ngài từ bỏ phương pháp khổ hạnh mà mình đang thực hành.

Thấy được sự sai lầm, công khai thừa nhận mình sai lầm, mạnh dạn bước khỏi sai lầm - đây là điều rất đáng để chúng ta nghĩ suy. Từ xưa đến nay, nhiều người đi vào những con đường sai lầm, sau đó biết rõ mình đang sai lầm, nhưng không mấy ai dám thừa nhận điều đó và bước ra khỏi con đường ấy. Một mặt, có thể con đường ấy mang đến cho họ những lợi ích nào đó, khiến họ không nỡ từ bỏ. Mặt khác, khi bước ra khỏi sai lầm, họ sợ bị người đời chế giễu, vì sĩ diện nên họ không đủ dũng khí để làm điều đó.

Thứ tư, từ bỏ sự trói buộc của chân lý

Chân lý ra đời để cởi trói cho con người, chứ không phải buộc chặt thêm con người. Nếu con người vận dụng chân lý một cách đúng đắnlinh hoạt sẽ có được hiệu quả tích cực. Trái lại, nếu con người nhân danh chân lý mà vận dụng một cách máy móc và sai lầm sẽ biến chính mình trở thành nô lệ. Song, không phải ai cũng có thể nhận thức rõ điều đó.

Trong kinh Ví dụ con rắn, Đức Phật tuyên bố: “Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp”4. Giáo pháp Thế Tôn cũng như chiếc bè, nếu sử dụng đúng chức năng thì sẽ phát huy hiệu quả. Chiếc bè có công dụng đưa người qua sông, không phải để vác trên vai, đội trên đầu, di chuyển trên đường bộ… Nói cách khác, không phải cứ mang chiếc bè khư khư bên mình mọi lúc, mọi nơi.

Cho nên, giáo lý nhà Phật có tính thực tiễn cao, đưa đến giải thoát con người, chứ không trói buộc con người. Đó là: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí chứng hiểu”5 (Kinh Ví dụ tấm vải).

Tóm lại, trong cuộc đời Đức Phật, nếu sự từ bỏ ngôi vua là sự từ bỏ liên quan đến vật chất, thì ba sự từ bỏ về sau là sự từ bỏ liên quan đến tinh thần. Ngài từ bỏ vị trí lãnh đạo tôn giáo vì đó không phải là mục đích tối thượng. Ngài từ bỏ phương pháp sai lầm vì nó không đưa đến mục đích tối thượng. Khi đã đạt được mục đích tối thượnggiác ngộ thì Ngài vẫn không trói buộc vào những gì đã chứng ngộ.

Cuộc đời Đức Phậtcuộc đời một vị đạo sư lớn của nhân loại. Người đời sau ghi nhận về Ngài qua cả hai phương diệnlịch sử và huyền sử. Đó cũng là điểm chung đối với các danh nhân tôn giáo lỗi lạc trên thế giới xưa nay. Tuy nhiên, nếu tạm gác qua những yếu tố mang tính huyền sử, thì cuộc đời lịch sử của Đức Phật đã để lại nhiều bài học sâu sắc, khiến chúng ta phải suy ngẫm.

_____________

1. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, tr.214; 2. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.217; 3. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.306; 4. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.179; 5. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 62.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1450)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1391)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1545)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1409)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1254)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1331)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1387)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1364)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1485)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1384)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1450)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1457)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1343)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1408)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1411)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2128)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1457)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1477)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1337)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1591)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1457)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1303)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1269)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1331)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1302)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1450)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1176)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1169)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1213)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1356)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1378)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1131)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1265)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1182)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1364)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1337)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1488)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1582)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1333)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1283)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1437)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1489)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1401)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1740)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1371)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1351)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1402)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1236)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1277)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant