Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

28 Tháng Sáu 202318:40(Xem: 1427)
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật
Bốn Sự Từ Bỏ Cao Thượng Của Đức Phật

Vĩnh Thông

Hành Trì Phật Pháp Là Gì

Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật trải khắp các xứ sở quanh vùng Đông Bắc Ấn Độ.

Chúng ta có cơ hội lắng nghe những cuộc thảo luận, những lời giáo hóa, những cách hành xử… mà Đức Thế Tôn dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Đồng thời, có cả những lời tự thuật về chính cuộc đời Ngài.

Trước nay, hầu hết mọi người đều ca ngợi rằng Đức Phật từ bỏ ngai vàng là sự từ bỏ vĩ đại. Tuy nhiên, Ngài không chỉ có một lần từ bỏ và đó cũng không hẳn là sự từ bỏ lớn nhất, mà còn nhiều sự từ bỏ khác. Trong đó, Đức Thế Tôn có bốn sự từ bỏ cao thượng, để lại bài học quý giá, đáng cho người đời sau suy gẫm.

Thứ nhất, từ bỏ đời sống phú quý

Chúng ta đã biết, Đức Phật vốn là Thái tử Siddhāttha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm), con vua Suddhōdana (Tịnh Phạn), tiểu quốc Sakya (Thích Ca). Từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành, Thái tử sống trong sự sung túc cùng cực về vật chất. Ngài có tài sản, danh vọng, địa vị, gia đình… và trên hết là có cả một vương quốc.

Đó là những điều mà bao nhiêu con người trên địa cầu này mải miết tìm kiếm. Trái lại, Thái tử có tất cả nhưng lại từ bỏ tất cả. Ngài nhận ra rằng con người bị chi phối bởi sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô… nhưng chính con người lại làm nô lệ cho sự sinh, già, bịnh, chết, nhiễm ô…

Trong kinh Thánh cầu, Đức Phật tự thuật: “Khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình1”.

Do xuất thân đặc biệt như thế, nên việc Bồ-tát xuất gia được mọi người đánh giá là sự từ bỏ hy hữu. Bởi, mấy ai có thể từ bỏ đời sống hưởng thụ dục lạc. Tuy nhiên, tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ thấy nhiều sự từ bỏ khác cao thượng không kém.

Thứ hai, từ bỏ địa vị lãnh đạo tôn giáo

Khi Bồ-tát theo học với hai đạo sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta, Ngài nhanh chóng thông suốt giáo lýchứng đắc các thiền chứng của họ. Thấy được tố chất đặc biệt của Bồ-tát, cả hai người thầy đều mời Ngài cùng lãnh đạo hội chúng với họ.

Ngài một lần nữa từ chối, vì các thành quả đó chưa đi đến mục tiêu tối thượnggiải thoát: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn”2 (Kinh Thánh cầu).

Điều này khiến chúng ta thấy rõ Bồ-tát xuất gia không phải vì để trở thành nhà lãnh đạo tôn giáo. Mặc dầu trên thực tế, sau khi giác ngộ, Đức Phật thật sự trở thành đạo sư, nhà lãnh đạo tôn giáo. Song, đó không phải mục đích của Ngài. Bởi, nếu đó là mục đích, thì trước đó Ngài đã chấp nhận lời mời lãnh đạo hội chúng từ hai vị thầy mình để đạt được mục đích rồi.

Thứ ba, từ bỏ các phương pháp sai lầm

Sau khi từ giã hai vị thầy, Bồ-tát tu khổ hạnh cùng năm vị đạo sĩ gồm Koṇḍañña (Kiều-trần-như), Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, Assaji. Thời bấy giờ, lối tu khổ hạnh đang trở thành trào lưu thịnh hành trong đời sống tôn giáo Ấn Độ. Ngài đã thực hành khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư đến độ vượt hơn sự nỗ lực của năm bạn cùng tu.

Tuy vậy, Bồ-tát nhận thấy rằng: “Với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh”3 (Đại kinh Saccaka). Ngược lại, một thể trạng kiệt quệ không thể nào đưa đến giác ngộ. Do đó, Ngài từ bỏ phương pháp khổ hạnh mà mình đang thực hành.

Thấy được sự sai lầm, công khai thừa nhận mình sai lầm, mạnh dạn bước khỏi sai lầm - đây là điều rất đáng để chúng ta nghĩ suy. Từ xưa đến nay, nhiều người đi vào những con đường sai lầm, sau đó biết rõ mình đang sai lầm, nhưng không mấy ai dám thừa nhận điều đó và bước ra khỏi con đường ấy. Một mặt, có thể con đường ấy mang đến cho họ những lợi ích nào đó, khiến họ không nỡ từ bỏ. Mặt khác, khi bước ra khỏi sai lầm, họ sợ bị người đời chế giễu, vì sĩ diện nên họ không đủ dũng khí để làm điều đó.

Thứ tư, từ bỏ sự trói buộc của chân lý

Chân lý ra đời để cởi trói cho con người, chứ không phải buộc chặt thêm con người. Nếu con người vận dụng chân lý một cách đúng đắnlinh hoạt sẽ có được hiệu quả tích cực. Trái lại, nếu con người nhân danh chân lý mà vận dụng một cách máy móc và sai lầm sẽ biến chính mình trở thành nô lệ. Song, không phải ai cũng có thể nhận thức rõ điều đó.

Trong kinh Ví dụ con rắn, Đức Phật tuyên bố: “Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp”4. Giáo pháp Thế Tôn cũng như chiếc bè, nếu sử dụng đúng chức năng thì sẽ phát huy hiệu quả. Chiếc bè có công dụng đưa người qua sông, không phải để vác trên vai, đội trên đầu, di chuyển trên đường bộ… Nói cách khác, không phải cứ mang chiếc bè khư khư bên mình mọi lúc, mọi nơi.

Cho nên, giáo lý nhà Phật có tính thực tiễn cao, đưa đến giải thoát con người, chứ không trói buộc con người. Đó là: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí chứng hiểu”5 (Kinh Ví dụ tấm vải).

Tóm lại, trong cuộc đời Đức Phật, nếu sự từ bỏ ngôi vua là sự từ bỏ liên quan đến vật chất, thì ba sự từ bỏ về sau là sự từ bỏ liên quan đến tinh thần. Ngài từ bỏ vị trí lãnh đạo tôn giáo vì đó không phải là mục đích tối thượng. Ngài từ bỏ phương pháp sai lầm vì nó không đưa đến mục đích tối thượng. Khi đã đạt được mục đích tối thượnggiác ngộ thì Ngài vẫn không trói buộc vào những gì đã chứng ngộ.

Cuộc đời Đức Phậtcuộc đời một vị đạo sư lớn của nhân loại. Người đời sau ghi nhận về Ngài qua cả hai phương diệnlịch sử và huyền sử. Đó cũng là điểm chung đối với các danh nhân tôn giáo lỗi lạc trên thế giới xưa nay. Tuy nhiên, nếu tạm gác qua những yếu tố mang tính huyền sử, thì cuộc đời lịch sử của Đức Phật đã để lại nhiều bài học sâu sắc, khiến chúng ta phải suy ngẫm.

_____________

1. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, tr.214; 2. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.217; 3. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.306; 4. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.179; 5. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 62.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1183)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 742)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 849)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 801)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 764)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 774)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 777)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 676)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 940)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1250)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1416)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1160)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1480)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 947)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 852)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 956)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 978)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 945)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 968)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1097)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 923)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1065)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1056)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 977)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1015)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 935)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1093)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1040)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1061)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 986)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 926)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1025)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1211)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 993)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1085)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1237)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1676)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1243)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1316)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1187)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1046)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1009)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1033)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 885)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1562)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1435)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1406)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1346)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant