Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh Quán Tánh Không

15 Tháng Bảy 202318:14(Xem: 1290)
Chánh Quán Tánh Không

Chánh Quán Tánh Không

Nguyễn Thế Đăng

Đời Như Tấm Gương Soi


1/ Sự tai hại của chấp Không

Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không. Khi tánh Không hiển lộ trọn vẹn, đó là giải thoát. Nhưng trên con đường quán chiếu tánh Không, nếu người ta lại lạc trong một kiến chấp vào cái không thì chư Phật không thể hóa độ.

9.  Đại thánh thuyết pháp Không
Để lìa mọi kiến chấp
Nếu lại kiến chấp Không
Chư Phật không thể dạy.
(Quán về hành, phẩm XIII, theo bản dịch Hán văn của Cưu Ma La Thập).

Kiến chấp Không là cái chấp của ý thức phân biệtgiới hạn vào một cái Không do nó tưởng tượng, chứ không phải tánh Không thực sự của giải thoát.

Chấp Không là bám chấp vào quan niệm tánh Không là không có gì cả, không có nhân quả, không có kiếp trước kiếp sau, không có phàm không có thánh … Từ đó người ấy tạo nghiệp xấu mà không biết lo sợ, đề phòng. Điều này chỉ làm cho cuộc đời người ấy đi xuống thấp. Kinh điển gọi cái chấp Không này là chấp đoạn, và cái chấp Có là chấp thường. Chấp đoạn hay đoạn kiến người Tây phương gọi là chủ nghĩa hư vô (nihilisme). Chúng ta cần nhớ những tác phẩm của Long Thọ thường dùng chữ Trung, Trung Đạo, để chỉ tánh Không thực sự thì vượt khỏi Có và Không, nghĩa là vượt khỏi thức phân biệt, để đạt đến trí huệ tánh Không, tức là trí huệ Bát nhã.

Chấp vào cái Không không có gì cả thì ngay cả chư Phật cũng không dạy dỗ, giáo hóa được.

Sở dĩ chấp Không vì không theo kinh điển, không có các vị thầy chỉ dạy, nên không thể “chánh quán tánh Không”, và do đó tự hại mình:

11. Không thể chánh quán Không
Người ngu ắt tự hại
Như chẳng rành chú thuật
Chẳng khéo bắt rắn độc.

(Quán Bốn Đế, phẩm XXIV)

Chánh quán tánh Không không phải là đơn giản cho rằng không có các tướng xuất hiện, mà là các tướng xuất hiện là không có tự tánh, vô tự tánh. Thế nên để chỉ “các hiện tượngxuất hiện nhưng vô tự tánh” này, các kinh luận thường lấy thí dụ “mặt trăng trong nước, như bóng trong gương, như ảo ảnh, như tiếng vang, như huyễn, như mộng…”

2/ Chân lý tương đốichân lý tuyệt đối

Để chánh quán tánh Không, thoát khỏi sự sai lầm của việc chấp Không, một điều học quan trọng nhất là học hai chân lý: chân lý quy ước, tương đối (tục đế hay thế đế) và chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế hay đệ nhất nghĩa đế). Thế nên cũng trong phẩm Bốn đế nói về tự hại khi không biết bắt rắn, ngài Long Thọ nói về hai chân lý:

7. Nay ông thật không biết
Không, nhân duyên của Không
Và biết nghĩa của Không
Thế nên sinh phiền não.
8. Chư Phật y hai đế
chúng sanh thuyết pháp
Một là thế tục đế
Hai, đệ nhất nghĩa đế.
9. Nếu người không thể biết
Phân biệt hai đế này
Thì với Phật pháp sâu
Chẳng biết chân thực nghĩa.
10. Nếu chẳng y tục đế,
Chẳng đắc đệ nhất nghĩa.
Chẳng đắc đệ nhất nghĩa
Thì chẳng đắc Niết bàn.

Muốn biết nghĩa của tánh Không, phải biết có hai chân lý quy ước, tương đốichân lý tuyệt đối, tối hậu.

Chân lý quy ước tương đốichân lý của thế gian như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thành công, thất bại, trước sau, quá khứ hiện tại vị lai, và vân vân. Chân lý quy ước tương đối này cần thiết cho cuộc sống làm người, cuộc sống xã hội. Nhưng nếu cho chúng là tuyệt đối là bắt đầu sai lầm và sự sai lầm này dẫn chúng ta vào sanh tử luân hồi.

Chấp vào chân lý tương đối rồi cho nó là tuyệt đối, điều này gọi là chấp thường và đưa con người vào sanh tử. Để thoát khỏi sự mê lầm này, phải thấy thật tướng của chân lý quy ướctương đối là không có tự tánh, không thật, vô tự tánh. Nói cách khác, phải đưa chân lý tương đối trở về chân lý tuyệt đốitánh Không để giải thoát cho chân lý tương đối.

Chấp Không là cho rằng không có chân lý tương đối, rộng hơn, không có sanh tử luân hồi. Một hình thức chấp Không khác là nghĩ rằng phá hoại hết các thứ tạo thành sanh tử thì sẽ đạt được tánh Không. Nhưng tánh Không không do phá hoại sắc mà thành, vì Bát nhã tâm kinh nói, “Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Tất cả các pháp khác cũng đều như vậy”.

Thế nên, muốn giải thoát các pháp tương đốiquy ước tạo thành thế giớichúng sanh thì không phải là hủy diệt thế giớichúng sanh mà là đưa thế giớichúng sanh trở lại thật tánh của chúng. Thật tánh ấy là không có tự tánh, vô tự tánh, tức là tánh Không.

Chân lý tương đối, quy ướccần thiết để chứng đắc chân lý tuyệt đốitối hậu. Sắc là cần thiết để hiển bày tánh Không, vì bản tánh của sắc là vô tự tánh, là tánh Không. Thế nên, câu kệ thứ 10 ở trên nói, “Nếu chẳng y tục đế, chẳng đắc đệ nhất nghĩa, chẳng đắc đệ nhất nghĩa, thì chẳng đắc Niết bàn”. Tánh Khôngđệ nhất nghĩađệ nhất nghĩaNiết bàn. Tánh Không chính là Niết bàn.

Hơn nữa, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”, nghĩa là thế đế (sắc) là đệ nhất nghĩa đế (Không) và đệ nhất nghĩa đế (Không) tức là thế đế (sắc).

3/ Tánh Không chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn

Luận nói Niết bàn không riêng hiện hữu ngoài sanh tử, nghĩa là đệ nhất nghĩa đế không riêng hiện hữu ngoài thế đế. Trong thật tướng tánh Không, không có cái thấy phân biệt giữa sinh tửNiết bàn.

10. Chẳng lìa ngoài sanh tử
Mà riêng có Niết bàn
Nghĩa thật tướng như vậy
Làm sao có phân biệt?

(Quán Trói buộcGiải thoát, XVI)

Bản tánh của các pháp cũng tức là thật tướng của tất cả các pháp. Thật tướng ấy là Niết bàn. Nói cách khác, bản tánh của tất cả các pháp là Niết bàn.

7. Thật tướng của các pháp
Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô sanh cũng vô diệt
Tịch diệt như Niết bàn.

Như thế, giải thoát đối với Trung Luận không phải là từ bỏ, tránh thoát sanh tử mà là đưa sanh tử trở về bản tánh Không của chính nó. Bản tánh Không của sanh tử chính là Niết bàn.

19. Niết bànthế gian
Không có chút phân biệt
Thế gian cùng Niết bàn
Cũng không chút phân biệt.
20. Thực tế của Niết bàn
Cùng với tế thế gian
Hai tế ấy như vậy
Không mảy may sai khác.
(Quán Niết bàn, XXV)

Không phải xóa bỏ sắc để có Không, không phải xóa bỏ sanh tử để có Niết bàn, mà thật tướng của sắc là tánh Không, thật tướng của sanh tửNiết bàn.

Thế gian sanh tử (thế đế) không có chút phân biệt, khác biệt nào với Niết bàn tánh Không (đệ nhất nghĩa đế). Biên tế của sanh tử không sai khác với thực tế của Niết bàn. Chỗ nào có sanh tử chỗ ấy có bản tánh của sanh tửNiết bàn tánh Không.

Cuối cùng, Trung Luận có cùng một kết luận với các kinh Đại thừa, “sanh tử tức Niết bàn”, không mảy may sai khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1695)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2422)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1853)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1926)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1795)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2171)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2149)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2288)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1781)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2087)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1799)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1780)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1955)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1951)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1606)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1791)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2123)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1872)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2469)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1774)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1776)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1743)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2187)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2009)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2156)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1693)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2305)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1635)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1927)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1829)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1878)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1718)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2465)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2176)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2116)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1928)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2324)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1883)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1969)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2212)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1727)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1988)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2002)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2216)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1981)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1826)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1810)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1830)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1947)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2244)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant