Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Tự TánhĐại Bi

28 Tháng Chín 202317:10(Xem: 1342)
Vô Tự Tánh Và Đại Bi

Vô Tự TánhĐại Bi

Nguyễn Thế Đăng

 1


1/ Sự không có lõi cứng của mình, người và thế giới

Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâmcho đến thế giới và chúng sanh.

Kinh Bọt Nước, Phẩm Hoa, Tập III Thiên Uẩn, Kinh Tương Ưng Bộ I, nói:

Có người mắt nhìn chuyên chú như lý quán sát đống bọt nước, nó hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng. 

Cũng vậy, này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứvị laihiện tại, hoặc nội hay ngoại, thô hay tế, yếu hay mạnh, xa hay gần, vị Tỳ kheo thấy sắc, nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng. Này các Tỳ kheo, làm sao mà lại có lõi cứng trong sắc được?”.

Cũng với cách nói như vậy, kinh nói “thọ như những bong bóng nước do các giọt mưa làm hiện rarồi tan biến, tưởng như ráng mặt trời, hành như các bẹ chuối, lột hết thì không có lõi ở đâu cả; thức như nhà ảo thuật làm xuất hiện các thứ, nhưng các xuất hiện ấy là trống không, trống rỗng, không có lõi cứng”.

Năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức của thân tâm mỗi người, và như vậy, của tất cả chúng sanh, khi “như lý quán sát” thì đều không có lõi cứng, trống không, rỗng không. Không có lõi cứng, trống không, điều này hệ Sanskrit các bộ kinh Bát nhã ba la mật đa gọi là “không có tự tánhvô tự tánh, Không, như huyễn”.

Phẩm Rắn Uragavagga, Kinh Tập, Kinh Tiểu Bộ I, nói:
5.  Ai trong các sanh hữu
Không tìm thấy lõi cây
Như kẻ đi hái hoa
Trên cây sung không hoa.
Tỳ kheo ấy từ bỏ
Bờ này và bờ kia
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ, già xưa.

9.  Ai không đi quá trớn

Cũng không quá chậm trễ
Biết rõ được ở đời
Sự này toàn hư vọng
Tỳ kheo ấy từ bỏ
Bờ này và bờ kia
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ, già xưa.

“Như lý quán sát”, “biết rõ được ở đời” là trí huệ nhìn thấy sự thực của tất cả mọi hình tướng xuất hiện là “không có lõi cứng, rỗng không, hư vọngnhư huyễn thuật”. Và do đó sự từ bỏ là điều tự nhiên, “từ bỏ cả bờ này và bờ kia”.

Sự không có lõi cứng, vô tự tánhtánh Không của các giác quan và các đối tượng của chúng, của thân tâm và thế giới được nói trong kinh Duy Ma Cật như sau:

Khi khất thực, nên trụ trong sự bình đẳng của tất cả các pháp, khất thực với sự quan tâm đến tất cả chúng sanh trong mọi lúc. Vì không ăn mới nên đi khất thực vậy. Vì hoại tướng hòa hiệp mới nên cầm lấy miếng thức ăn vậy. Vì chẳng thọ mới nên thọ đồ ăn ấy. Vì tưởng làng xóm trống không mà vào nơi làng xóm. Có thấy sắc cũng như mù, có nghe tiếng cũng như vang, có ngửi mùi cũng như gió, vị món ăn chẳng phân biệtCảm thọ các xúc như trí chứng (tánh Không). Biết các pháp, các hiện tượng là tướng như huyễn, không tự tánh, không tha tánh, xưa vốn chẳng cháy, nay cũng chẳng tắt” (Phẩm Đệ tử).

Thân tâmthế giớichúng sanh là như huyễn, như mộng:

Tất cả các pháp sanh diệt chẳng trụ, như huyễn, như chớp. Các pháp chẳng đợi nhau, cho đếnmột niệm cũng chẳng dừng. Các pháp đều là vọng thấy, như mộng, như dợn nắng, như trăng trong nước, như bóng trong gương, đều do vọng tưởng sanh. Người nào biết như vậy gọi là khéo hiểu” (Phẩm Đệ tử).

Con người sống với các chúng sanh khác và tạo thành gia đìnhxã hội. Nhưng cũng chính vì sống với các chúng sanh khác mà có đủ thứ phiền não thương ghét, say mê, giận hờn, tranh chấp, hơn thua, xung đột, chiến tranh một mất một còn.

Nhưng “mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát, khéo hiểu” thì chúng sanh là thế nào?

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ngài Duy Ma Cật rằng: Bồ tát nhìn chúng sanh như thế nào? 

Ngài Duy Ma Cật Đáp: Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do mình biến hóa ra, Bồ tát thấy chúng sanh cũng như vậy. Như người trí thấy trăng trong nước. Như trong gương thấy mặt mình. Như ảo ảnh nơi hơi nóng. Như vang của tiếng. Như mây trong không. Như đống bọt nước. Như sự bền chắc của cây chuối. Như sự dừng lâu của tia chớp. Như đại thứ năm. Như uẩn thứ sáu. Như căn thứ bảy. Như nhập thứ mười ba. Như giới thứ mười chín. Bồ tát quán thấy chúng sanh cũng như vậy” (Phẩm Quán chúng sanh).

2Đại bi

Bồ tát cũng là một chúng sanh, một chúng sanh đi trên con đường giác ngộ (Bodhisattva). Trên con đường ấy Bồ tát dần dần thấy ra mọi sự và chúng sanh đều không có lõi cứng, vô tự tánhthực chất là tánh Không. Nhưng vì con người không nhìn chuyên chú, như lý quán sát nên vọng thấy tất cả cuộc đời sanh tử, chia cắt mình và người, mình và thế giới để thành ra một cõi nhân gian đầy khổ đau, với tất cả mọi thứ phiền não.

Người ta vì không biết (vô minh), thấy lầm (vọng thấy) nên không biết mình đang tìm kiếmtranh đoạt lẫn nhau những thứ “hư vọng, không có lõi cứng, như trăng trong nước…”. Vì như bọt nước mà tìm cách nắm giữ, như tia chớp mà trọn đời đuổi theo nắm bắt, như giành nhau vớt mặt trăngtrong nước rồi đánh nhau giết nhau, như người huyễn do mình biến hóa ra mà tìm cách hơn thua, thương ghét… một cuộc đời vọng tưởng như vậy là vô vọng. Thấy đời người vô vọng, khổ đau một cách vô ích, như Bát Nhã Tâm Kinh nói là “điên đảo mộng tưởng”, nên nơi người thực hành Bồ tát đạo lòng bi tự nhiên khởi sanh.

Trí huệ thấy tánh Không khiến lòng bi khởi sanh là như vậy.

Bồ tát thấy chúng sanh mê lầm, không biết được sự thật “vô ngã và vô pháp”, ngã và pháp đều không có lõi cứng, vô tự tánh nên đại bi càng thêm rộng lớn. Chính nhờ đại bi này, Bồ tát không dừng lại giữa đường để nhập hoàn toàn vào tánh Không, tức là nhập Niết bàn, mà bỏ lại chúng sanh. Các kinh, như Hoa Nghiêm, Nhập Lăng Già… đều nói Bồ tát ở Địa thứ Tám có thể nhập Niết bàn theo ý muốn nhưng không làm vì không thể bỏ mặc chúng sanh, không bỏ đại nguyện đã phát từ khi khởi sự con đường.

Do đại biBồ tát đi giữa sanh tử và Niết bàn, nghĩa là tâm không ở trong sanh tử mà cũng không trụ hẳn vào Niết bàncho đến lúc thành Phật để độ tất cả chúng sanh.

3/ Con đường Bồ tát

Bồ tát là người đã phát Bồ đề tâmBồ đề tâm gồm (1) nguyện đạt đến giác ngộ vô thượng (Trí huệ), (2) để độ thoát tất cả chúng sanh (Đại bi).

Đó là con đường trí huệ và đại bi hợp nhất. Trí huệ là thấy được bản tánh của mọi hiện tượng, kể cả hiện tượng chúng sanh, là tánh Khôngnhư huyễn như mộng. Đồng thờiđại bi là không bỏ chúng sanh ở lại trong mê lầm và khổ đau.

Trí huệ tánh Không và đại bi cứu độ chúng sanh, nếu nhìn một cách cạn cợt thì như mâu thuẫnnhau, không thể hợp nhất. Nhưng con đường Bồ tát tìm cách hợp nhất hai yếu tố đó trong từng bước, cho đến khi gần cuối con đường, hai yếu tố ấy phát triển trọn vẹn và hợp nhất trọn vẹn.

Đại bi là không bỏ chúng sanh, ở trong thế giới của chúng sanh để giúp đỡ, cứu thoát họ. Để làm được đại nguyện đó, phải có trí huệ tánh Không làm tiêu tan các phiền não nhiễm ô của bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả để tự bảo vệ mình và làm việc cho người.

Đó là con đường hợp nhất trí huệ và đại bicon đường Bồ tát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 703)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 785)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1107)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1271)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1000)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1344)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 795)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 767)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 810)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 825)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 804)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 793)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 839)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 989)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1008)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 933)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 859)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1016)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 961)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 898)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 996)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 911)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 853)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 888)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1148)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 920)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1160)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1619)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1115)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 979)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 922)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 961)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1488)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1368)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1331)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1385)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1335)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1268)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant