Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhĩ Căn Viên Thông

24 Tháng Mười Một 202319:31(Xem: 1317)
Nhĩ Căn Viên Thông
Nhĩ Căn Viên Thông  

Thích Nguyên Hùng

Bồ Tát Đạo


Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).

Khả năng này không những giúp cho Bồ-tát có thể nghe và hiểu hết tất cả âm thanh của thế gian mà còn cho phép Bồ-tát nghe mà thấy sắc, nghe mà biết mùi, nghe mà biết vị, nghe mà cảm nhận, nghe mà thấu hiểu, tức là lỗ tai có tất cả những chức năng của các giác quan mắt, mũi, lưỡi, thân và ý.

Kinh Thủ lăng nghiêm ghi lại lời trình bày về sự tu tập của Bồ-tát Quán Thế Âm lên Đức Thế Tôn như sau: “Kính bạch Thế Tôn! Con nhớ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Ở nơi Đức Phật ấy, con đã phát tâm Bồ-đề. Đức Phậtấy dạy cho con cách vào thiền định bằng phương phápVăn, Tư, Tu.

Con bắt đầu tu tập, trước hết nghe lại chính mình, nghe bên trong, liền được vào dòng; vào dòng rồi không còn tướng nghe. Chỗ vào đã vắng lặng thì hai tướng động và tĩnh rõ ràng không sinh. Cứ như vậy, sự tu tập tăng tiến dần, đến lúc cái nghe và cái được nghe đều vắng lặng. Sự vắng lặng không dừng ở đó, mà tiếp tục tiến đến chỗ cái biết và cái được biết đều không, rồi cái biết về không ấy đi đến chỗ tận cùng viên mãn, cái không và cái được biết là không hoàn toàn vắng bặt.

Ý niệm sinh diệt đã diệt mất hoàn toàn thì cảnh giới tịch diệt hiện ra rõ ràng trước mắt, bỗng nhiên con vượt thoát cả thế gian và xuất thế gianmười phương rực sáng. Ngay đó con đạt được hai điều thù thắng. Một là, trên thì khế hợp với bản giác diệu tâm của mười phương chư Phật. Hai là, dưới thì ứng hợp với hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo mười phương, cùng với chúng sinh đồng tâm khát ngưỡng yêu thương.

Bạch Đức Thế Tôn! Do con cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, được Ngài trao truyền cho pháp tu ‘văn huân và văn tu như huyễn’; con tu pháp ấy mà chứng Kim cang tam-muội, cùng với chư Phật đồng một sức từ, khiến cho thân con thành tựu được 32 thân ứng hóa vào khắp các quốc độ” (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 128b15).

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời. Tức là thấy rõ bản chất của các pháp không có gì là thật cả. Bấy giờ Bồ-tát chứng được Kim cang tam-muội.

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời.

Diệu lực của Kim cang tam-muội là cùng với chúng sinh trong sáu đường khắp mười phươngba đời đều đồng một lòng khát ngưỡng yêu thương, một thứ tình thương có khả năng chuyển hóa khổ đau và sợ hãi bằng hành động vô tác, gọi là vô duyên từ. Với diệu lực này, Bồ-tát Quán Âm ban chochúng sinh 14 điều vô úy.

1. Quán Âm nhưng không phải quán âm thanh đối tượng bên ngoài, mà quán cái tâm năng quán của chính mình, tức là nghe tiếng nói tự lòng mình. Công phu tu tập này sẽ khiến cho chúng sinhkhổ não khắp mười phương đều được giải thoát (thập phương khổ não chúng sinh, quán kỳ âm thanh tức đắc giải thoát).

2. Quán Âm tức là xoay tri kiến trở lại soi chiếu nội tâm, là lắng nghe tiếng lòng thanh tịnh nhiệm mầu của mình. Công phu soi chiếu này sẽ khiến cho chúng sinh dù vào đống lửa lớn, những ngọn lửa tham đắm, hận thù, si mê… không thể nào đốt cháy được (thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu).

3. Quán Âm tức là quán cái nghe xoay vào nội tâm, để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình. Công phu này sẽ khiến cho chúng sinh dù bị nước lớn cuốn trôi, đó là những dòng nước tham ái, nước lợi danh… cũng không bị những dòng nước ấy nhận chìm (đại thủy sở phiêu, thủy bất năng nịch).

4. Quán Âm tức là diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại. Công phu này khiến cho chúng sinhdù phải vào trong các nước ngạ quỷ, cũng không bị chúng quỷ làm hại. Không còn tâm sát hại thì không bao giờ bị sát hại (nhập chư quỷ quốc, quỷ bất năng hại).

5. Quán Âm tức là huân tập cái nghe mà thành tựu tính nghe chân thật; cả sáu căn đều tiêu huyễn vọng mà trở về chân tínhCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh lúc sắp phải bị hại, dao gãy từng khúc, binh khí chạm thân dường như chém nước, như gió thổi ánh sáng, tính không dao động(sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại).

6. Quán Âm tức là huân tập tính nghe tinh thuần, sáng khắp pháp giới, thì những gì đen tối không thể tồn tạiCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù các loài ác quỷ như dược-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tì-xá-già, phú-đơn-na..., nếu có đứng gần cũng không thể nhìn thấy, không thể nhìn bằng con mắt dữ dằn (thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn nhị chi).

7. Quán Âm tức là hai tính động, tĩnh của âm thanh đều tiêu diệt hoàn toànquán chiếu tính năng nghe xoay ngược vào trong, xa lìa hết các trần cảnh hư vọngCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, tất cả những thứ gông cùm xiềng xích đều không dính đến thân thể (nữu giới già tỏa kiểm hệ kỳ thân, giai tất đoạn hoại).

8. Quán Âm tức là dứt tuyệt âm thanh, tròn vẹn tính nghe, từ lực phát sinh cùng khắp. Công phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù đi qua con đường nguy hiểm, cũng không bị giặc cướp làm hại (kinh quá hiểm lộ, tặc bất năng kiếp).

9. Quán Âm tức là huân tu tính nghe thanh tịnhxa lìa các trần tướng, sắc dục không thể quyến rũCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nặng nghiệp tham ái rời xa tham dục (đa dâm chúng sinhviễn ly tham dục).

10. Quán Âm tức là lưu lại thuần một thật tướng của âm thanh, không còn mảy may đối tượng thanh trầncăn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãiCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nhiều nóng giận dứt bỏ sân hận (oán hận chúng sinh, ly chư sân khuể).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lựcnghe và hiểu hết mọi âm thanh của các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứukhổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

11. Quán Âm tức là tiêu trừ vọng trần đối tượng, xoay cái nghe về tự tính sáng suốt, từ ngoài pháp giới đến trong thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly, rỗng suốt không có gì chướng ngạiCông phutu tập này khiến cho tất cả chúng sinh ngu ngốc đần độn vĩnh viễn xa lìa si mê tăm tối (hôn độn tính chướng, chư a-để-ca, vĩnh ly si ám).

12. Quán Âm tức là tiêu trừ hết huyễn hình tứ đại, xoay tính nghe trở về nơi tịch diệt bất động, hòa nhập vào thế gian mà không hủy hoại thế giancúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, làm Pháp vương tử ở bên cạnh mỗi mỗi Đức PhậtCông phu tu tập này khiến cho tất cả những kẻ không có con trong khắp pháp giới, muốn cầu có con trai thì sinh được con trai phúc đức trí tuệ (dục cầu nam giả, đản sinh phước đức trí tuệ chi nam).

13. Quán Âm tức là sáu căn viên thông, chiếu sáng không hai, bao trùm mười phương pháp giới, thành chiếc kính lớn tròn đầy, thành không Như Lai tạng, vâng lãnh các pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, lãnh nhận không thiếu sótCông phu tu tập này khiến cho những kẻ không có con trong thế gian, muốn cầu có con gái, thì sinh được con gái xinh đẹpđoan chínhphúc đức, dịu hiền, mọi người yêu kính (dục cầu nữ giả, đản sinh đoan chínhphước đức nhu thuận, chúng nhân ái kính hữu tướng chi nữ).

14. Quán Âm tức là trong ba ngàn đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, các vị Pháp vương tử hiện trú ở thế gian nhiều đến 62 lần số cát sông Hằng, đều tu Phật pháp, làm mô phạmgiáo hóa và tùy thuận chúng sinhtrí tuệ và phương tiện mỗi ngài mỗi khác.

Vậy mà, do đã được nhĩ căn viên thông, phát ra diệu tính của nhĩ căn, sau đó thì thân tâm trở nên vi diệu, bao trùm cùng khắp pháp giới, cho nên có thể khiến cho người chấp trì danh hiệu của Bồ-tát, so với người chấp trì danh hiệu của 62 lần số cát sông Hằng các vị Pháp vương tử nói trên, phước đức của hai người này ngang bằng nhau, không có gì sai khác (phước đức chính đẳng vô dị).

Đó gọi là 14 sức vô úy thí, đem phúc lành đến khắp chúng sinh (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 129a25).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lực nghe và hiểu hết mọi âm thanhcủa các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứu khổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Rõ ràngQuán Thế Âm là vị Bồ-tát thành danh hay mang tên gọi từ chính pháp môn mà Ngài tu tậppháp môn lắng nghe, tư duy và hành động; bắt đầu từ sự lắng nghe tiếng nói của lòng mình mà dần hiểu hết tiếng nói hay tâm tư, nguyện vọng của muôn loài chúng sinh, để rồi đi đến hành động thiết thực là ban rải tình thương không điều kiện. Một khi biết lắng tai nghe và nghe được với tâm tịch tĩnh trong sáng thì sẽ hiểu biết trọn vẹnviên thông. Ấy là lúc Bồ-tát dấn thân vào đời bằng tình thương vô bờ, gọi là vô ngại đại bi vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1392)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1545)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1412)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1254)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1332)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1387)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1365)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1488)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1389)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1451)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1458)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1345)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1408)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1412)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2130)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1458)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1478)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1339)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1592)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1459)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1304)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1271)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1332)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1303)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1450)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1176)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1169)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1213)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1360)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1378)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1136)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1267)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1184)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1365)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1337)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1488)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1583)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1334)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1288)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1438)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1491)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1404)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1742)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1373)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1353)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1402)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1236)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1278)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1399)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant