Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Một Bài Thơ Cho Hai Mùa Xuân

17 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17984)
Một Bài Thơ Cho Hai Mùa Xuân

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa nở

Việc đới trước mắt luôn đi mãi

Trăm năm đầu đã bạc tóc rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai (1).

 

 Không nói ai cũng biết đó là bài thơ của Mãn Giác Thiền Sư (1052 – 1096)(2) , cứ mỗi độ xuân về tết đến thường được vang lên khắp đó đây .Bài viết này lúc đầu tôi không có ý định viết lại vì ai ai cũng đều biết và thuộc nằm lòng bài thơ tuyệt tác và đầy ý nghĩa này .Thế nhưng , khi đặt bút lên trang giấy thì ý định đó không đủ sức mạnh tồn tại thêm lâu hơn ,và bài thơ lại được viết ra như là một tiền đề không thể thiếu ,không thể cưỡng lại với bất kỳ lý do nào ,bởi tự thân bài thơ là cả một mùa xuân trọn vẹn của đất trời ,của quê hương đất nước mà trong bốn ngàn năm văn hiến vẻ vang , có hai ngàn năm Phật giáo Bi Hùng Lực song hành chưa bao giờ ngừng nghĩ .

 

 Đúng vậy , bài thơ quá hay ,quá ý nghĩa ,hiểu được nhiều góc độ khác nhau .Chính hai yếu tố này đã thành lực tác mạnh mẽ ,chắp đôi cánh cho nó đáp nhẹ vào tâm hồn người dân Việt chúng ta hằng bao nhiêu thế hệ ,để làm cương lĩnh sống và phấn đấu vươn lên , vượt qua ngàn gian lao khó nhọc .Chính vì giá trị này bài thơ còn hạ cánh , đậu hiên ngang vào trang sách giáo khoa mà ngày nay học sinh cấp III cũng thuộc nằm lòng tinh thần nhân văn tuyệt vời của Mãn Giác Thiền Sư .

 

 Việc đời cứ trôi đi mãi theo nhịp độ thời gian ,kéo theo bao cơn lốc vô thường ;xóa rồi bày trong luân chuyễn .Thế mà Mãn Giác Thiền Sư lại nắm bắt được mùa xuân dừng lại ,bảo mùa xuân phải là mãi mãi ,bảo hoa mai cứ thong dong tự tại ,thi nhau đua nở suốt bốn mùa ,làm lá chắn tinh thần dõng mãnh , đương đầu với mọi khổ đau trần thế .Để rồi Mãn Giác Thiền Sư gởi lại mùa xuân trường lưu ấy vào trong mỗi tâm khãm chúng ta , như là một bảo vật ,để muôn đời sau chúng ta gìn giử .Các thế hệ cháu con mai này cũng tín cẩn ,vinh hạnh cất giử ,khi cần sẽ mở ra cho mùa xuân tràn ngập ,cho hoa mai thi nhau đua nở mỗi khi trường đời vấp ngã đau thương .

 

 Con người ta ở đời thường hay nói chuyện xui của năm cũ ,chuyện tốt của năm mới và chúc nhau những lời tốt lành rập khuôn ,đôi khi trong một hoàn cảnh nào đó nó lại là mỹ từ , sáo ngữ không hơn không kém.

 

 Mùa xuân ở đây chỉ là ba ngày tết thôi sao ?Sao lại sớm quên đi một mùa xuân mãi mãiMãn Giác Thiền sư đã tín cẩn giao phó cho chúng ta cất giử hằng bao lâu nay !Mùa xuân đó mới đích thực là mùa xuân của an vui ,tự tại ,lúc nào ,khi nào nó cũng sẵn sàng đến với chúng ta .Đó không phải là một thứ “phép lạ”rẻ tiền dành cho kẻ cuồng tìn mê sảng mọi thời đại, mà Mãn Giác Thiền Sư ban cho chúng ta .Vì không phải là “phép lạ”nên bài thơ không có chút linh hiển huyển hoặc nào có thể giúp chúng ta nhe răng cười mãi với niềm vui riêng của mình và đạt cho nó cái tên MÙA XUÂN.

 

 Mùa xuân của Mãn Giác Thiền Sư ngự trị trong tâm thức mỗi chúng ta .Tâm của tỉnh thức ;tỉnh thức chứ không mê mờ ,bởi lẽ do mê mờ nên luôn bị lường gạt bởi cái gọi là MÙA XUÂN của ngoại cảnh .Mùa xuân này luôn động , luôn hối hả ,chộn rộn tất bật để chào đón chính nó .Thở không ra hơi mà miệng cứ tuôn ra những lời chúc tốt lànhNhân Mùa Xuân Mới”.Những đối đãi không thật do chính nó tạo ra và ươm mầm cho tương tác trùng điệp sản sinh .

 

 Mùa xuân của Mãn Giac Thiền Sư vì là mùa xuân của tâm thức chúng ta nên không có phạm trùXuân Cũ”hay “Xuân Mới” và “Xuân Đi” hay “Xuân Đến”.Từ ý nghĩa đó chúng ta không quá ngạc nghiên khi bài thơ nói về MÙA XUÂN (Thật ra đây là bài kệ dãy chúng) mà lại mang một cái tên “ xui xẻo”, đối nghịch: CÁO TẬT THỊ CHÚNG !(Trên giường bệnh dạy chúng).Và nó được Mãn Giác Thiền Sư cất cao giọng đọc trước khi…thị tịch ! Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy sự đối kháng chan chát với MÙA XUÂN ngoại cảnh.

 

 Chưa hết ,bài thơ này của Mãn Giác Thiền sư ra đời vào tháng 11 âm lịch(niên hiệu Hội Phong thứ 5-1096)nào phải đang độ giữa MÙA XUÂN !Rõ là nghịch lý !Cái lý của thế gian .của ngoại cảnh.

 

 Nhưng ,từ những nghịch lý đó ,sản sinh tiếp theo một nghịch lý khác nữa ,đó là bài thơ lại được nhắc đến nhiều nhất vào mỗi dịp …MÙA XUÂN ! Xuân ngoại cảnh !Và tất cả chúng ta hiện vẫn đang sống trong MÙA XUÂN ngoại cảnh này .Không sao cả vì chúng ta đã ý thức được điều đó .Từ trên nền tảng này chúng ta hiểu bài thơ của Mãn Giác Thiền sư như là một lời nhắc nhở cần thiết trước bao nỗi khổ đau của con người ,mượn MÙA XUÂN ngoại cảnh để làm điểm mốc rủ bỏ những phiền muộn suốt một năm trường lận đận bôn ba vật vả .Cjho nên bài thơ trong ý nghĩa náy còn gởi gấm ước vọng thầm kín sâu xa là mong muốn mùa xuân còn mãi ,như để lưu giử những may mắn ,vui tươi ở bên mình và ở mọi lúc mọi nơi.

 

 Tôi đã có lần chứng kiến một “Đại Gia” do làm ăn thất bát , nọ tín phiếu ngập trời do không ít lấn sụp sàn chứng khoán .Anh ta nâng ly bia cụng vào ly tôi đang cầm ,cất giọng lè nhè hai câu thơ cuối mà đôi mắt ngấn lệ rưng rưng :”Chớ Bảo Xuân tàn Hoa Rụng Hết-Đêm Qua Sân Trước Một Cành Mai”! .Họ gởi gấm niềm hy vọng vào ý nghĩa câu thơ như để tự an ủi cho chính mình .Tôi lúc đó vì cám cảnh của anh cũng góp vui :”Chớ Bảo Sụp Sàn là Mất Hết – Đêm Qua Còn Có Một Niềm Tin .Rồi cả nhóm lại lao vào bàn luận bài thơ như chưa bao giờnỗi buồn.

 

 Lần khác , người chị bạn tên Giàu ,có nhờ tôi đứng làm chủ hôn họ nhà trai và xuống tận Thốt Nốt-Hậu Giang đón dâu .Một lão nông họ nhà gái tiếp ly rượu lễ xin nhập gia của tôi một cách vui vẻ nhưng lại vỗ vai tôi nói “Qua già rồi ,giờ lại lo cho con cháu .Nhưng đừng tưởng Qua hỏng biết gì ráo trọi à nghe .Nghe nè (ngâm) XUÂN KHỨ BÁCH HOA LẠC-XUÂN ĐÁO BÁCH HOA KHAI- SỰ TRỤC…” khiến tôi giật mình vì đã có ý nghĩ xem nhẹ sự hiểu biết của ông ta.

 

 Cách đây hai mùa xuân , có một chàng thanh niên thuộc thế hệ 8X têm Lâm,chuyên viên nghành tin học, đến nhờ tôi viết mấy chữ thư pháp .Khi anh ta nói ra ý định nội dung muốn nhờ khiến tôi ngạc nhiên nhưng giã đò lần lựa khuyên anh ta tìm câu khác .Anh ta nhất định không và nói “Em thích câu này từ khi còn học trung học .Rất tiếc không biết tác giả của nó là ai“. Anh ta mừng rở ra mặt khi tôi nói tác giả của câu thơ này và đọc cho anh ta nghe toàn bộ bài thơ .Anh ta vô cùng phấn chấn và lại muốn được tôi viết tặng toàn bộ bài thơ này. Tấm thư pháp này hiện đang được vẫn còn treo trang trọng trong phòng khách nhà anh ta.

 Một vài chuyện nhỏ trên cho thấy bài thơ có sức sống và tác động nhiều mặt trong xã hội trên bình diện MÙA XUÂN ngoại cảnh .Và hôm nay bài viết này cũng chỉgo1ppha6 phần cho mùa xuân ngoại cảnh ,bằng một bài thơ của MÙA XUÂN NỘI TÂM.

 ________________________

 Chú thích (I):

 NGUYÊN ÂM

 Xuân khứ bách hoa lạc – Xuân đáo bách hoa khai

 Sự trục nhãn tiền quá – Lão tòng đầu thượng lai.

 Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

 Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

 (Cố Hòa thượng Thích Thanh Kiểm đã dịch thơ như sau:)

 Xuân đi mang cả một mùa hoa

 Xuân đến hoa lòng nở với ta

 Muôn sự thăng trầm qua nước mắt

 Một dòng tuổi mộng lại đi qua.

 Đâu phải xuân tàn hoa rụng hết

 Đêm qua sân trước một nhành mai.

 

Chú Thích 2:

 Thiền sư họ Nguyễn, tên Trường. Quê ở Lũng Chiền,Lảng An Cách. Thân Phụ là Hoài Tổ.làm chức Trung Thơ Viên Ngoại Lang.

 Mãn Giác là tên Thụy do vua ban lúc ông thị tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 718)
Các vị thánh trong Phật giáo thường được mô tảtừ bi như mẹ hiền, với sự kiên nhẫn vô tận của một người mẹ
(Xem: 648)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(Xem: 670)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(Xem: 738)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 982)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tạichúng taquyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(Xem: 779)
Đức Phật xuất hiệnhành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(Xem: 662)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(Xem: 743)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(Xem: 866)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(Xem: 788)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(Xem: 862)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 857)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(Xem: 1045)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(Xem: 1865)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 1124)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(Xem: 1391)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 930)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(Xem: 933)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(Xem: 713)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 735)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(Xem: 1192)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(Xem: 861)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(Xem: 902)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(Xem: 899)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(Xem: 869)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(Xem: 913)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(Xem: 949)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(Xem: 907)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(Xem: 787)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(Xem: 971)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(Xem: 935)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(Xem: 953)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 929)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(Xem: 874)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(Xem: 960)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(Xem: 990)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(Xem: 972)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(Xem: 1100)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(Xem: 848)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(Xem: 882)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(Xem: 1112)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(Xem: 955)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(Xem: 977)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(Xem: 1067)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(Xem: 1016)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(Xem: 1153)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(Xem: 1151)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(Xem: 1168)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(Xem: 3155)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(Xem: 1142)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM