Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc

20 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 29840)
Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc


Tôi không có nhiều kỷ niệm với cô Kim Ngọc trên bình diện hoạt động nghệ thuật sân khấu xã hội. Nhưng ở khía cạnh nghệ thuật sân khấu Phật giáo thì một vài kỷ niệm cũng nói lên được nhiều điều.

Nhất là một người nổi tiếng như Cô, đã sớm hòa nhập vào trang sử văn hóa nghệ thuật Phật giáo trong những tháng ngày còn khó khăn, thì đó là cả một công trình rất to lớn và mang nhiều ý nghĩa, vì nó được khởi phát từ tâm.

Ngày ấy, quan hệ của tôi chỉ gói gọn gồm cố NSND Út Trà Ôn, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Kim Ngọc, Cô Sáu Châu, Cô Ba (Chị Chồng của Cô Kim Ngọc)…


Đây chính là những nghệ sĩ đã sớm tham gia, khơi dậy nền nghệ thuật sân khấu Phật giáo và góp phần thúc đẩy các phong trào văn nghệ Phật giáo khắp nơi nở rộ.


Đỉnh điểm đáng nhớ nhất là năm 1991.


Đây là thời gian các hoạt đông văn hóa Nghệ thuật Phật giáo được nở rộ nhiều mặt. Nhất là hai mảng Cổ Nhạc - Cải lương và Tân Nhạc.


Tôi được Thượng Tọa Thích Đồng Bổn giao nhiệm vụ phát triển và xây dựng cổ nhạc - cải lương Phật giáo. Tất cả đếu mang tính chất tiên phong nên có vấp phải rất nhiều cản ngại.


Nhưng với tâm nguyện của Thấy Đồng Bổn và sự trợ lực quý báu ban đầu của Bác Mười, Cô Út, Cô Ba, Cô Kim Ngọc, Thầy khuyên tôi cố gắng hoàn thành một vở cải lương, vì một vở cải lương sẽ quy tụ được nhiều nhân tố đóng góp hơn.


Vở cải lương Phật giáo đầu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy, đó là vở “THÁI TỬ A – XÀ - THẾ”.


Vì là một công trình mang danh Phật giáo nên ai cũng đều thận trọng trong chuyên môn của mình. Do đó phần phục trang tôi phải tự vẽ luôn và giao cho vị có trách nhiệm thực hiện. Khi vẽ phục trang, ngoài ý nghĩa Phật giáo ra phần còn lại chính cô Kim Ngọc đã giúp tôi rất nhiều trong việc đánh giá tính cách nhân vật, để từ đó có ý tưởng phác họa trang phục.


Trong thời gian viết vở, Cô Kim Ngọc thường hay hỏi thăm tôi và nói cứ phân cho Cô vai nào cũng được, đừng có ngại, bởi theo cô “Đây là việc cúng dường Tam Bảo, vai nhỏ lớn gì cũng là cái tâm của mình cả”.


Dù vậy, tôi cũng cố gắng hư cấu ra hai nhân vật phù hợp với khả năng và tài nghệ của cô để cô có dịp dốc hết tài năng của mình cho vở diễn.


Lúc này Nghệ sĩ Quốc Hòa đã là bạn diễn thường xuyên của cô rồi. Tôi tìm đến nhà cô (lúc đó còn ở đường Trần Hưng Đạo) hỏi dò xem cô có thể mời nghệ sĩ Quốc Hòa cùng tham gia không.


Cô cười ha hả, vỗ vai tôi rất mạnh nhưng lại nói “Được hôn cưng?”.


Có nghĩa là Cô lo ngại có diễn chút hài vui vui trong một vở Phật giáo được không.


Tôi nói hoàn toàn không có gì cả và chính Bác Mười Út Trà Ôn nói thêm vô Cô mới an lòng chấp nhận.


Và thế là tôi viết cho nghệ sĩ Quốc Hòa vai Quan Cận Thần và Cô là Vợ Quan Cận Thần.


Hai nhân vật này chuyên chở tính đạo lý rất lớn, giúp hỗ trợ ý nghĩa đường dây câu chuyện thêm sinh động, và nhất là giúp giảm bớt tính căng thẳng vốn xuyên suốt cả vở diễn.


Dù vở diễn chỉ dừng lại ở mức thể nghiệm nhưng các nhân tố tích cực đóng góp đã cố gắnghy sinh rất nhiều. Vì là vở ban đầu, còn nhiều khiếm khuyết nhưng có thể nói cũng từ đó mà các vở sau phát triển hoàn thiện hơn.


Bên cạnh những vở Cải Lượng như vậy, còn có cả buổi biểu diễn phục vụ, dù ở đâu, xa xôi hay gần và có ảnh hưởng đôi chút giờ giấc chạy sô, Cô Kim Ngọc luôn hoan hỷ vui vẻ, chưa bao giờ nghe hoặc thấy Cô lộ một cử chỉ khó chịu nào.


Trong suốt quãng thời gian đó, tôi đã vâng lời Thầy Đồng Bổn biên tậpthực hiện 6 album Ca Cổ Phật Giáo, chương trình nào Cô cũng đều tham gia đóng góp.


Cô ca vọng cổ rất ngọt, đến nỗi khi vừa mới nghe qua băng mộc, Thầy Đồng Bổn phải gọi điện cho Cô và khen lấy khen để.


Những tháng ngày đáng nhớ ấy qua rồi. Cũng khá lâu lắm rồi. Đó cũng là thời gian tôi chưa lần gặp lại Cô, dù vẫn nghe thấy Cô trên các phương tiện truyền thông hàng ngày.


Vậy mà hôm nay Cô lại ra đi, bỏ lại sau lưng nhiều công đức còn ngập tràn trong tâm khảm của riêng tôi.


Tôi chợt nghĩ, những công đức đó chính là nhiên liệu nội tại, giúp đưa Cô đi về nơi thanh thản nhất của nẻo đạo.


Cách bày trí Linh cữu của Cô cũng nói lên được chất nhà Phật, Tiền Phật Hậu Linh, rất đúng, rất đẹp lẽ đạo.


Cô Kim Ngọc! Một người Nghệ sĩ Phật tử rất đẹp trong tâm trí tôi và cả mọi người đang hướng đến một chân trời hạnh phúc vĩnh hằng, không còn khổ đau, chẵng có oán hờn.


Như lời Cô nói vui với tôi trong một lần đi diễn “Cô ráng làm nhiều, để mai sau nếu có mất (Cô nói từ “NGỦM”) thì còn có chút đỉnh vốn liếng mà xài”.


Đúng vậy! Ngày hôm nay mọi người khóc thương tiếc Cô mà Cô thì ung dung tự tại ra đi, chẳng chút vướng bận gì cõi trấn thế. Đó há chẵng là vốn lẫn lãi - lãi quá nhiều đấy ư?


Sáng mai này tôi không có dịp được trực tiếp đưa tiễn Cô về nơi an nghĩ cuối cùng, do vậy, tôi viết đôi dòng này, xin làm nén nhang thắp lên ven đường đễ vĩnh biệt.


Mong Cô chứng tri cho lòng tôi, một người em thưở còn sum họp bên Thầy Đồng Bổn ngày nào.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2627)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2512)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2414)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3219)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2289)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2382)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2511)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2172)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2550)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2628)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2675)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2522)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2555)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4038)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2756)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3020)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2771)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2845)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2596)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2607)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2254)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2360)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2464)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2710)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2116)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2800)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2873)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2905)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2483)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant