Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiền

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18283)
Tiền
Tiền  
David R. Loy
Thị Giới lược dịch
Midas là một vị vua xứ Lydia. Nhờ phục vụ cho thần Dionysus, ông được thần ban cho bất cứ điều gì ông muốn. Mặc dù rất giàu có, lòng tham của ông vẫn không thỏa mãn, ông xin thần ban cho khả năng biến bất cứ vật gì ông chạm đến đều trở thành vàng, và Midas vui sướng biến mọi thứ thành vàng... 
Rồi đến bữa ăn tối. Ông gắp một miếng thức ăn, thức ăn biến thành vàng. Ông nhắp một hớp rượu, hớp rượu biến thành vàng. Ông nựng người con gái, người con biến thành một tượng vàng... Quá thất vọng, Midas xin Dionysus cho ông được giải lời nguyền và trở lại với cuộc sống bình thường.

So với xã hội Hy Lạp ngày xưa, câu chuyện đơn giản nhưng sâu sắc đó còn thích hợp hơn trong thế giới ngày nay. Thế giới chúng ta đang sống là thế giới hướng về tiền. Trong thế giới này, Midas được cả xã hội chấp nhận. Và sự thật, trong mỗi chúng ta đều có ít nhiều Midas. Sống trong một thế giới mà khả năng biến đổi liên tụctính chất nổi bật, chúng ta đã nhận chìm những cảm quan, làm tê liệt khả năng thưởng thức cuộc sống của chúng ta, tập trung vào những con số lên xuống trong tài khoản ngân hàng. Thay vì đánh giá phẩm chất mùi vị của một ly rượu vang, chúng ta chú trọng hơn đến giá tiền của nó và tìm cách chứng tỏ rằng chúng ta là một người uống rượu cầu kỳ. Vì sống trong một xã hội coi những con số ma lực kia là quan trọng nhất, hầu hết chúng ta lo lắng cho việc có đủ tiền, và cho rằng sự lo lắng đó là điều thích đáng. Nhưng thế nào là đủ, và đến khi nào thì việc hoạch định tài chánh và sự mưu cầu chân thật về hạnh phúc gặp nhau? Tập trung vào một thứ trừu tượng không có giá trị tự thân, chúng ta coi thường đời sống cụ thể, coi thường sự xúc chạm trực tiếp của chúng ta với thế gian. Chúng ta không còn biết giá trị chân thật của sự vật và ý nghĩa của cái không. 

Phật giáo có thể giúp chúng ta hiểu vì sao chiếc bẫy đó lại quá quyến rũ đối với chúng ta.

Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại. Điều này làm cho tiền trở nên có giá trị hơn bất cứ thứ gì khác vì nó có thể tạo ra hầu hết những thứ khác. Và vì cách xã hội đồng thuận trong việc định nghĩa thế nào là giá trị, tiền trở thành biểu tượng của giá trị thuần túy.

Là một phương tiện trao đổi, tiền trở thành kho chứa giá trị. Đó là chức năng thứ hai của tiền. Nhiều thế kỷ trước, khi tiền chưa được sử dụng rộng rãi, sự giàu có của một người được đánh giá trên số lượng trâu bò, lúa thóc, người làm và con cái. Ưu thế của vàng và bạc - và ngày nay là tài khoản ngân hàng - là không bị hư hại, ít nhất là trên nguyên lý, và không bị hủy hoại do chuột, mối, lửa… Đặc biệt với vàng, con người say mê nó vì dưới mắt họ, vàng không bị xỉn rỉ và không bị hủy hoại. Và điều này thật sự hấp dẫn đối với một thế giới luôn bị ám ảnh bởi tính chất vô thườngbiến hoại

Chủ nghĩa tư bản còn đem đến cho tiền một chức năng thứ ba. Đó là thứ mà chúng ta được hưởng ngày nay, nhưng đối với nhiều người trong quá khứ thì không đáng tin cậy. Chủ nghĩa tư bản đặt nền tảng trên tư bản, là tiền được sử dụng để tạo ra nhiều tiền hơn. Đầu tư số tiền thặng dư và nhìn nó tăng trưởng. Điều đó khuyến khích sự năng độngtăng trưởng của kinh tế. Nó đã dẫn đường cho nhiều phát triển hữu ích. Nhưng đồng thời nó cũng đem đến sự tiêu cực khi chúng ta tiếp tục tái đầu tư bất cứ thứ gì chúng ta có được, cho rằng chúng ta không bao giờ có quá nhiều. Tư bản luôn luôn được dùng để tích lũy thêm tư bản. Và điều này có khuynh hướng làm cho chúng ta không bao giờ thấy đu. Cách tiếp cận với tiền này rõ ràng tương phản với những xã hội ngày xưa, trong đó tài sản thường được phân phối lại khi đạt đến một mức độ chênh lệch nào đó. Những xã hội đó dường như nhạy cảm hơn về mối tương quan xã hội, cố gắng tránh sự đổ vỡ mối tương quan xã hội do sự chênh lệch tài sản gây ra.

Một điểm đáng chú ý về sự đầu tư trong nền kinh tế tư bản là nợ. Nền kinh tế tư bản là một nền kinh tế vận hành trên nợ, đòi hỏi một xã hội yên tâm với sự mắc nợ. Nợ ít nhất lớn hơn tiền vay ban đầu một chút: Những người đầu tư kỳ vọng lấy lại được nhiều hơn tiền đầu tư ban đầu. Khi mà toàn bộ nền kinh tế vận hành theo cách đó, kết quả xã hội là một sự thúc ép toàn diện cho sự phát triển liên tục, vì đó là con đường duy nhất để trả những món nợ chồng chất. Dưới sức ép liên tục cho sự phát triển đó, con người đã không đoái hoài đến những hậu quả khác về xã hội và môi sinh. Điều xã hội hướng đến là sự kỳ vọng về tương lai: hiện tại không bao giờ đủ nhưng tương lai sẽ (hoặc phải) khá hơn.

Vì sao chúng ta rơi vào tình trạng đó? Với giáo lý vô ngã (anatta), Phật giáo cho chúng ta một tầm nhìn đặc biệt về khổ (dukkha), trong đó bao hàm sự vướng mắc vào tiền. Khổ không chỉ là một ngày nào đó chúng ta sẽ bệnh, già và chết. Không có cái ngã (vô ngã) cũng có nghĩa là ngay lúc này đây, chúng ta đang cảm nhận điều gì đó không ổn nơi chính mình. Chúng ta cảm thấy một lỗ hổng ngay trong nền tảng hiện hữu của chúng ta, một cảm giác về sự thiếu hụt, không trọn vẹn. Và để phản ứng lại cảm giác đó, chúng ta lao vào sự bận rộn với những dự án, nghĩ rằng chúng sẽ giúp chúng ta cảm thấy mình là “thật” hơn. Thiên Chúa giáo cũng đã tìm cách giải thích và đưa ra giải pháp tôn giáo cho cảm giác hụt hẫng này, nhưng nhiều người trong chúng ta không còn tin vào tội nguyên thủy nữa. Vậy có cái gì không ổn nơi chúng ta? Trong những xã hội phát triển hay “kinh tế hóa” ngày nay, giải thích phổ biến nhất là chúng ta không có đủ tiền. Đó là “tội nguyên thủy” đương đại của con người.

Đến đây, chúng ta thấy ngoài những chức năng như là một phương tiện trao đổi, nơi tích lũy giá trị, và tư bản để đầu tư, tiền còn một chức năng nữa: Tiền trở thành biểu tượng của thực tại. Ngày nay tiền được phần đông tin là một phương tiện nhận diện tốt nhất để cảm nhận về chính mình, để chống lại cảm giác dày vò rằng con người thật sự không hiện hữu. Hoài nghi về sự hiện hữu thật sự của ngã, con người đã tìm đến tôn giáo để thiết lập nền tảng cho ngã bằng sự kết nối với Thượng đế hay thần linh. Ngày nay, chúng ta đầu tư vào “chứng khoán” và “tín dụng” để tạo nền tảng cho chúng ta trong kinh tế. Những tổ chức tài chánh trở thành những điện thờ cho chúng ta.

Và càng được coi trọng, tiền càng được sử dụng để định giá trị con người chúng ta. Tiền đi sâu vào đời sống, và cái biểu tượng do chúng ta tạo ra đó trở lại điều động chúng ta hầu như về mọi mặt. Có người cho rằng xã hội ngày nay của chúng ta quá thiên về vật chất, nhưng thật sự phải nói rằng chúng ta không thiên đủ về vật chất. Gắn bó quá chặt với biểu tượng, chúng ta đã xem nhẹ đời sống. Chúng ta say mê sức mạnhgiá trị của tiền hơn là những thứ mà tiền mua được. Chúng ta say mê sở hữu một chiếc Mercedes-Benz để nói về cái tôi hơn là sự tiện nghisức mạnh của chiếc xe. “Tôi là hạng người lái xe Mercedes/ sở hữu căn nhà ở Maui / và có chứng khoán giá trị triệu đô…”.

Tất cả điều này không ra ngoài câu châm ngôn cổ xưa “không dây tự trói” của thiền. Chúng ta bị tù hãm bởi cách chúng ta suy nghĩ về tiền.

Dưới cái nhìn của Phật giáo, vấn đề thật sự của chúng ta chính là ở nơi chúng ta, ở cách chúng ta cố gắng để xác định mình. Chúng ta tìm cách xác định mình bằng những thứ ở bên ngoài, những thứ không bao giờ có thể ban cho chúng ta cảm nhận về thực tạichúng ta mong muốn để lấp vào cảm giác “rỗng không”. Chúng ta cố gắng để có được một trương mục ngân hàng có nhiều tiền và mọi thứ mà xã hội dạy cho chúng ta rằng sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc, để rồi cuối cùng chúng ta không hiểu vì sao chúng ta vẫn không tìm thấy hạnh phúc, không hiểu vì sao những thứ đó không giải quyết được cảm giác thiếu thốn nơi chúng ta.

Chúng ta có thể hiểu về tiền bằng một ẩn dụ Phật giáo. Đó là tánh không, “sự rỗng không” trong bản chất của mọi hiện tượng. Đó là một cách diễn tả về tính chất tương quan giữa sự vật, không có thứ gì hiện hữu một cách độc lập. Mỗi sự vật đều là một phần của tất cả những sự vật khác. 

Nhưng dù bản chất là rỗng không, trong xã hội ngày nay, tiền vẫn là một thứ không thể thiếu. Vấn đề chỉ xảy ra khi chúng ta nắm con rắn ở phần đuôi. Nói như Bát Nhã Tâm Kinh, mọi sắc tướng đều rỗng không, nhưng không có tánh không tách rời ngoài sắc tướng. Sự bận tâm về tiền của chúng ta là chỉ bám vào một thứ không có ý nghĩa thật sự từ chính nó, chúng ta bám vào một thứ hoàn toàn nằm ngoài sắc tướngchúng ta càng ngày càng mất đi khả năng đánh giá một cách như thật.

Có thể nói một cách khác rằng tiền không phải là sự vật nhưng là một tiến trình. Chúng ta có thể hiểu nó như một thứ năng lượng không thật sự là của tôi hay của anh. Nếu chúng ta hiểu được rằng tiền chỉ là một biểu tượng rỗng không được xã hội tạo dựng nên, chúng ta có thể sử dụng nó với trí tuệtừ bi để có thể làm giảm sự đau khổ của thế gian.

David R. Loy - Thị Giới lược dịch
(Từ Money, Sex, War, Karma)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2216)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2654)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2520)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2331)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2642)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2425)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3238)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2311)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2404)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2529)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2460)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2529)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2189)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2575)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3043)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2640)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2697)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2972)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2543)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2579)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4076)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2763)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3048)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3292)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2284)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2497)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2799)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2992)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2863)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2600)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2625)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3183)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2591)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2269)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2380)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2471)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2591)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2675)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2737)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3260)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2553)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2125)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2043)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2813)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2893)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2931)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2697)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2505)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2772)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant