Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy ngẫm nhỏ về phương tiệncứu cánh trong tinh thần Phật Pháp

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14652)
Suy ngẫm nhỏ về phương tiện và cứu cánh trong tinh thần Phật Pháp

blankTrang VnExpress ngày 19/6/2010 đăng tin về một chiến binh al-Qeada giết cha, vì ông này làm việc cho Mỹ. Người cha bất hạnh tên Hameed al-Daraji, 50 tuổi, là một nhà thầu và phiên dịch viên cho quân đội Mỹ. Ông bị đứa con trai bắn vào ngực lúc 3 giờ sáng qua khi đang ngủ tại nhà ở Samarra.

Bài viết chỉ đưa vài dòng tin ngắn ngủi nhưng sức chấn động của nó quá lớn, khiến bất kỳ ai còn có lương tri đều không khỏi cảm thấy đau lòng. Đôi khi đọc báo, ta lại thấy có những tin về con giết cha trong cơn say hoặc cơn giận đến mất cả trí khôn, hoặc đọc lịch sử, ta thấy trong các vương triều phong kiến vẫn có chuyện con giết cha để tranh giành quyền lực; điều đó đã là quá khủng khiếp rồi, nhưng nó hoàn toàn khác hẳn với kẻ giết cha nhân danh một tổ chức, một lý tưởng.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, trên con đường đấu tranh để đạt đến lý tưởng, thì sự xung đột giữa gay gắt tình và lý, giữa cá nhân và tập thể, giữa đạo lýcông lý, giữa hạnh phúctrách nhiệm, giữa phương tiệncứu cánh vẫn luôn xảy ra. Đây là những vấn nạn thường đặt ra trong nền văn hóa nhân loại, để con người phải tìm ra được sự điều hòa chân thực giữa đạo trời và đạo người, làm sao cho xã hội vẫn tốt đẹplương tâm con người vẫn thanh thản, vì nền đạo lý vẫn được duy trì. Tìm được sự điều hòa cho mối tương xung tưởng chừng như bất khả vãn hồi đó sẽ là con đường dẫn con người đến với vẻ đẹp nhân văn, giúp con người sống đẹp đẽ hơn.

Giết người trong cơn nóng giận là sân, giết người để tranh giành quyền lực là tham, còn giết người vì lý tưởng là si. Huống gì kẻ bị giết đó là đấng sinh thành? Lý tưởng mà người chiến binh kia đang nỗ lực kiến tạo hoàn toàn được xây dựng trên nền tảng của Tham–Sân–Si; phương tiện thì đầy bạo lực mà lại muốn kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp thì quả là vô minh quá đỗi.

Xây dựng nên một xã hội lý tưởng để tất cả mọi người đều sống hạnh phúc luôn là một cứu cánh vô cùng cao cả, một ước mơ của toàn thể nhân loại, nhưng liệu “chân diện mục” của xã hội đó sẽ ra sao, khi con đường dẫn đến xã hội lý tưởng đó được kiến tạo bằng quá nhiều bạo lực, và cả máu của người thân? Nếu tổ chức của người chiến binh kia mà thành công thì điều gì sẽ chờ đón nhân loại? Có gì có thể biện minh được cho một nền công lý, một thế giới lý tưởng được xây dựng trên máu của người cha? Liệu có loài hoa thanh bình nào có thể đơm bông trên nền đất của tội ác? Một người có thể thản nhiên giết cha để bảo vệ cho cái gọi là lý tưởng thì đối với người đó, liệu những người đồng loại còn có một giá trị nào chăng, hay chỉ được xem là một thứ chất liệu, một loại phân bón cho lịch sử, cho lý tưởng? Một tôn giáo hay một học thuyết nào cổ vũ cho điều đó chỉ có thể đưa xã hội đến sự băng hoại đạo đức, và dẫn đời sống tinh thần con người đến chỗ lụi tàn.

Lý tưởng mà ta muốn hướng đến dĩ nhiên được coi là cao đẹp, nhưng nếu để đạt đến cứu cánh cao đẹp đó ta lại phải hủy hoại không thương tiếc những điều thiêng liêng khác trong cuộc sống thì cái lý tưởng kia liệu có còn mang một giá trị nhân bản gì chăng, hay là nó đã thực sự băng hoại từ tận nền tảng? Văn hào Nga Dostoievsky cho rằng địa ngụctâm hồn không còn biết yêu thương. Đem cái tâm hồn không còn biết yêu thương đó để nỗ lực đấu tranh cho một xã hội lý tưởng thì cái xã hội đó chỉ có thể là địa ngục, hoặc là xã hội của những con robot vô cảm đã được lập trình.

Người ta thường nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đây là cách lập luận rất được ưa dùng để biện minh cho những phương tiện mang tính bá đạo được dùng trong quá trình tiến tới cứu cánh. Lý luận vẫn luôn là con dao hai lưỡi mà con người thường vẫn dùng để bào chữa cho tội ácthủ đoạn, nhằm đánh bạt tiếng nói của lương tri. Câu “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mới nghe tưởng chừng như rất hợp lý, nhưng thử hỏi một khi chưa đạt đến cứu cánh thì cái gì sẽ biện minh cho cứu cánh? Khi nóng lòng muốn đạt đến cứu cánh mà ta phải dùng mọi phương tiện, bất chấp thủ đoạn theo kiểu “vô sở bất chí” thì cứu cánh tự nó đã bị thối rữa rồi. Muốn đánh giá cứu cánh tốt đẹp hay không thì cách đơn giản nhất là nhìn vào bản chất của phương tiện. Nếu phương tiện đầy bạo lực và máu lửa, đầy những hành động tham sân si thì làm sao ta có thể tin rằng nó sẽ đưa đến một cứu cánh thanh bình an lạc?

Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp thực sự để giải thoát cho con người. Cuộc đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động của thánh Gandhi dẫu không dẫn đến thắng lợi hoàn toàn như mong muốn, nhưng phương tiện đầy tính nhân bản dùng trong cuộc đấu tranh đó đã mở ra những phương trời mênh mông cho tâm thức nhân gian. Người xưa hy sinh bản thân để thành tựu đạo nhân (sát thânthành nhân) hay Mạnh Tử bảo rằng “Làm một chuyện bất nghĩa, giết một kẻ vô tội mà được cả thiên hạ đều không nên làm” (Hành nhất bất nghĩa, sát nhất bất cô, nhi đắc thiên hạ, giai bất vi dã. Mạnh Tử – Công Tôn Sửu thượng) cũng nằm trong tinh thần đó.

Con người, trong suốt dòng lịch sử, luôn cho rằng dùng bạo lực để hủy diệt những cái được cho là xấu trên đời này, là cách đúng đắn duy nhất tạo ra tiền đề cho sự xây dựng nên cái mới tốt đẹp. Tư duy đó đã đem máu và lửa rải khắp đông tây, gây nên biết bao thảm họa cho nhân loại tự cổ chí kim. Biết bao nhiêu chuyện bất nghĩa đã diễn ra, biết bao nhiêu máu người vô tội đã đổ xuống cho tham vọng tranh giành thiên hạ. Dùng bạo lực –và do đó, thù hận – để kiến tạo cái mới thì bản thân cái mới cũng là một hình thức bạo lực mới mang đầy sự thù hận. Và sự thù hận đó sẽ là nguyên nhân để làm khởi phát sự thù hận khác. Giống như để loại bỏ cây đinh ra khỏi một khúc gỗ, ta phải dùng một cây đinh khác. Khi cây-đinh-cần-loại-bỏ đã bị trục ra ngoài thì bản thân cây-đinh-dùng-để-trục-cây-đinh-kia lại trở thành một chướng ngại mới trong khúc gỗ. Phương tiện được sử dụng để đạt đến cứu cánh lại tiếp tục trở thành cho chướng ngại mới cho một phương tiện khác. Và như thế cứ tiếp tục đến vô cùng. Đó là sự diễn tiến của dòng lịch sử được kiến tạo trên nền tảng của bạo lực.

Muốn kiến tạo nên một xã hội lý tưởng thấm nhuần vẻ đẹp nhân văn, như cảnh giới Tịnh Độ, thì phương tiện duy nhất chỉ có thể là Từ BiTrí Huệ. Đôi khi chính những người dẫn đắt các cuộc tiến hóa lịch sử đó phải hy sinh để khơi lại dòng lịch sử. Máu của tổng thống Lincoln, của mục sư Luther King, của thánh Gandhi… đổ xuống đã tô thắm cho những trang lịch sử đen tối của nhân loại.

Viễn cảnh con chim bồ câu vui đùa cùng sư tử như mong ước của Dostoievsky, cảnh tượnglão giả an chi, thiếu giả hoài chi” của đức Khổng Tử, hay kiến lập được một nhãn quan bình đẳng giữa sinh tử với Niết Bàn để đưa con người đến giải thoát của Phật giáo … vẫn mãi mãi là điểm hướng đến của mọi nền chính trị, mọi tôn giáotriết học. Biện pháp mà Dostoievsky đưa ra là dùng cái Đẹp để cứu chuộc thế giới, đức Khổng Tử dùng lễ nhạc, đức Phật dùng vô vàn phương tiện thiện xảo để từng bước dìu con người về bến giác.

Thay vì nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, ta phải nói “phương tiện minh họa cho cứu cánh”. Điều này hiện rõ nét trong tinh thần Phật giáo chân chính. Kinh Giáo giới Phú lâu na có lẽ là một minh họa đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc về tinh thần này. Kinh thuật lại chuyện tôn giả Phú lâu na [Punna], muốn xin phép đức Phật để đến xứ Sunaparanta (Tây Phương Du-na Quốc) để sống và truyền giáo.

Sau đây là cuộc đối thoại giữa ông và đức Thế tôn [bản dịch của T.T. Thích Minh Châu]:

“Này Punna, người nước Sunaparanta là hung bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô ác. Này Punna, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc Ông, nhục mạ Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ như thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc con, nhục mạ con, thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy tay đánh đập ta’. Bạch Thế Tôn, tại đây con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ như thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy các cục đất ném đánh ta’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy! Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy các cục đất ném đánh Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy cục đất ném đánh con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy gậy ném đánh ta’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna… lấy gậy đánh đập Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập con… ‘… Vì rằng họ không lấy đao đánh đập ta’… Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna,… lấy đao đánh đập Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao đánh đập con… ‘… Vì rằng họ không lấy đao sắc bén đoạt hại mạng ta’… Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con; thời tại đấy con sẽ nghĩ như sau: ‘Có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiềnnhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.”

“Lành thay, lành thay, này Punna! Này Punna, Ông có thể sống trong nước Sunaparanta, khi Ông có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này Punna, Ông nay hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.”

Đoạn kinh văn trên đây phản ánh tinh thần Từ Bi chân chính của Phật giáo khi hoằng pháp. Người xưa không chỉ xả thân cầu pháp mà còn xả thân hoằng pháp. Chỉ cần nhìn vào “phương tiện” là tinh thần xả thân hoằng pháp của Punna, thì “cứu cánh” là chính pháp chưa cần nghe giảng, ta cũng có thể hình dung được rồi. Cũng như Niết Bàn là gì, “đáo bỉ ngạn” là gì, đó là cứu cánh ta khoan vội bàn, nhưng chỉ cần nhìn vào phương tiện để đạt đến cứu cánh đó, là Từ BiTrí Huệ, là lục độ thì ta cũng có thể hình dung cứu cánh đó sẽ là phương trời giải thoát bao la.

(Nguồn: Talawas)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant