Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Những điều nghe thấy

19 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5223)
5. Những điều nghe thấy

VĂN MiNH NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Những điều nghe thấy

Vào thế kỷ thứ bảy, lúc Ngài Huyền Trang ghé thăm, nước Cao-xương là một nước lớn cường thịnh ở Á Châu, có quân đội nghiêm minh, tề chỉnh. Cũng là một nước văn minh, công nghệ, mỹ thuật đều khéo léo, có tiếng tăm. Nhưng sự dời đổi trong hoàn vũ thật không sao lường trước được, cách 1.500 năm sau đã xảy ra lắm cuộc bại thành! Xứ ấy ngày xưa nước mạnh binh cường, ngày nay lại là một nơi mà đến tên tuổi cũng chẳng còn ghi trên bản đồ. Ngày xưa, dân xứ ấy rất tự hào về thương mãi và mỹ thuật, ngày nay chỉ còn là những khóm dân rãi rác đang chết dần giữa làn sóng văn minh hiện đại. Nhưng dấu tích xưa chưa phai nhạt hết, cứ theo các nhà khảo cổ thì vẫn còn biết được nhiều tranh ảnh khéo léo, tinh xảo, tài tình. Xem các tượng Phật của nước ấy còn lại thì cũng đủ thấy là một dân tộc có văn minhtín ngưỡng.

Người bản xứ rất hâm mộ văn chươngđạo đức nhà Phật, có nhiều vị tăng thông thạo tiếng Phạn, vẫn thường khảo cứu và phiên dịch kinh sách.

Người trong nước phần đông đều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa về phần văn minh vật chất. Vào thời đó, vua là một người gốc Trung Hoa, hâm mộ đạo Phật, trước đây vẫn giao thiệp và cống nộp cho Trung Quốc. Khi vua Thái Tông bình trị thiên hạ, nhà vua này hằng giữ nghĩa và kết tình lân bang rất thân thiết. Hơn nữa, vua gốc là người Trung Hoa nên khi nghe có danh sư nhà Đường nhân đi thỉnh kinh sắp đến nước mình thì quyết ý tiếp rước.

Sách Trung Hoa có nói đến vị vua này, tuy mộ đạo nhưng rất bạo ngược, kiêu căng, muốn cho mọi người đều chiều lòng mình. Vừa được tin Ngài Huyền Trang vào đất Y-ngô, vua đã cho sứ giả đến thăm và cầu thỉnh. Dẫu Ngài muốn đi theo đường khác và viếng một vị cao tăng có danh, nhưng vua thành khẩn quá, Ngài phải nhận lời ghé lại hoàng thành. Ngài đến kinh đô lúc chiều tối. Lòng vua nôn nóng gặp Ngài, không chờ được đến sáng hôm sau. Vua liền ngự ra khỏi thành để chờ đón rước Ngài và thỉnh lên bảo tọa đã sắp đặt nghiêm trang trước rồi. Vua đứng trước mặt Ngài, cung kính làm lễ và đọc bài diễn văn chúc mừng: Bạch Đại Đức, từ hôm nghe Ngài qua đến xứ này, đệ tử lấy làm sung sướng, cho đến quên cả việc ăn uống ngủ nghỉ. Đệ tử đã ước độ đường từ đất Y-ngô qua đây, biết rằng hôm nay Ngài vào đến kinh thành, nên cùng vợ con bỏ ngủ, thức đây tụng kinh để chờ Ngài. Giây lát, hoàng hậu, các công chúa, hoàng tử đều đến lạy ra mắt Ngài. Buổi lễ đêm ấy rất long trọng. Vua vì quá kính trọng Ngài và lòng rất mộ đạo, nên ngồi bàn luận với Ngài đến gần sáng mới chịu ra về.

Ngài đi đường xa nên đã mệt, hôm ấy phải ngồi tiếp chuyện với vua suốt đêm, lại càng mệt thêm. Khi vua ra về, Ngài mới nghỉ yên được.

Trong đêm gặp gỡ ấy, Người có trí hẳn đã hiểu được tánh tình của vua rồi. Ngài Huyền Trang lại càng đủ sức hiểu biết hơn ai hết. Cho nên tuy Ngài có vui về sự biệt đãi, mà cũng có lòng lo về chuyện sắp đến. Thật vua có lòng mộ đạo, nhưng tánh tình không được hòa nhã.

Qua mấy hôm sau, vua tặng cho Ngài nhiều món đồ quý báu, định phong chức tước cao sang, vua có dời các nhà danh sư trong nước đến phục sự và luận đạo với Ngài. Vua lấy làm hân hạnh mà thỉnh được một vị cao tăng như Ngài nên không đành để Ngài đi, ý muốn giữ lại đặng phong quyền tước và giao việc đạo pháp trong nước cho Ngài chấp chưởng. Nhưng Ngài từ chối tất cả và tâu rằng: Bần tăng đi đây nào phải vì sự phú quý vinh hoa, mà chính vì tình hình đạo đức rối ren ở nước nhà! Bần tăng thấy đạo lý ở quê hương còn khiếm khuyết và kinh sách thiếu hụt, sai lầm, nên mới chịu trăm ngàn sự khổ mà ra đi tìm đạo. Vì lý tưởng ấy, bần tăng chẳng nệ sanh tử, quyết đến Tây Thiên mà học thêm đạo lý. Bần tăng muốn rằng, chẳng những tinh thần nhà Phật soi tỏ cho Ấn Độ, mà lại còn truyền khắp Trung Quốc với các nước Viễn Đông. Vậy bệ hạ nỡ nào ngăn cản bần tăng. Xin bệ hạ dứt bỏ lòng quyến luyến, để cho bần tăng được thong thả ra đi mà làm tròn phận sự!

Vua không thuận lòng, bèn đáp rằng: Bạch Đại đức, đệ tử kính mến Ngài vô cùng vô tận. Xin Ngài đoái tưởng đến thì đệ tử rất vui lòng hầu hạ Ngài. Đệ tử đã quyết cầu khẩn cho được, xin Ngài tha lỗi cho, dầu cho núi Bạch-mễ-nhĩ có dời, ý kiến đệ tử cũng không thay đổi!

Ngài Huyền Trang nghe nói lấy làm lo sợ. Nhưng Ngài nhất định không ngã lòng. Vua thấy cầu khẩn mãi chẳng được, giận dữ đưa tay lên phán rằng: Ngài chẳng nghĩ đến, thôi để ta làm thẳng xem Ngài có đi được hay không. Ta đã quyết định cầm Ngài lại, nếu không được ta sẽ trục xuất Ngài về. Ngài nên thong thảsuy nghĩ lại, tốt hơn hết là nên nghe theo ta!

Ngài Huyền Trang chẳng thuận tình bèn đáp lại khẳng khái rằng: Bần tăng vì đạo lớn mà đi, nào có sợ sệt chi. Bệ hạ dầu muốn cầm lại thì chỉ giữ được xương cốt của bần tăng thôi, chứ không thể giữ được tinh thầný chí của bần tăng đâu.

Vua vẫn quyết ý cầm lại, hết sức hăm dọa, rồi đến ngon ngọt vỗ về. Bấy giờ vua càng trọng đãi thêm, càng phong thưởng thêm, cho đến đích thân lo việc cơm nước và hầu hạ bên Ngài. Ngài Huyền Trang thấy vua chẳng khứng cho mình đi, bèn thề rằng sẽ tuyệt thực cho đến chết. Đoạn Ngài ngồi yên tịnh một chỗ, không hề lay động nữa, chẳng nói năng gì. Ròng rã ba ngày không ăn không uống. Qua ngày thứ tư, vua thấy hơi thở của Ngài yếu dần và sinh mạng thật mong manh. Vua hổ thẹn và hoảng sợ lắm, mới quỳ xuống lạy xin nhận tội. Vua thề trước tượng Phật sẽ để cho Ngài đi. Ngài Huyền Trang vững lòng, mới nhận dùng ít món cơm canh. Nhưng vua xin Ngài nán lại một tháng đặng giảng đạo cho bá quan và dân chúng trong thành, và Ngài nhận lời. Vua truyền xây cất ngay một giảng đường, trong ấy dự được 300 người. Rồi cả triều đình từ hoàng thái hậu, vua với cung phi, các quan đều đến dự, cùng với vị Quốc sư và hàng tăng chúng; ai nấy nghe thuyết giảng đều rất kính phục tài diễn giải, luận biện của Ngài. Mỗi ngày đến giờ thuyết pháp, vua thân hành đến rước Ngài, tay cầm lư hương còn lưng vua thì cúi xuống để Ngài nương theo đó mà bước lên đài.

Lúc trước, vua vì kính trọng tài đức Ngài mà tìm đủ cách để cầm giữ Ngài. Bây giờ vua lại giúp cho mọi cách để Ngài đi được dễ dàng. Vua sợ Ngài phải lạnh vì sẽ trải qua dãy núi Thiên sơndãy núi Bạch-mễ-nhĩ rất cao, nên chuẩn bị cho Ngài những mền đắp, y phục và nhiều đồ cần dùng khác để đỡ lạnh. Vua ban cho Ngài một trăm lượng vàng, ba muôn đồng bạc, năm trăm vóc lụa và mọi thứ ăn dùng trong khi đi đường. Vua lại cấp cho ba chục ngựa tốt và hai mươi lăm lính hầu. Vua hết lòng trông nom và phái sứ thần đi theo qua đến xứ người Thổ miền Tây, vì vua Cao-xương vốn có tình giao hảo đậm đà với vua xứ ấy. Vào lúc đó, người Thổ miền Tây cường thạnh và văn minh lắm. Nếu được họ giúp đỡ thì cuộc hành trình của Ngài sẽ dễ dàng hơn nhiều, sẽ được các nước khác tiếp đãi nhiệt tình. Vua lại còn trao cho Ngài hai mươi bốn tờ sắc điệp giới thiệu và các đồ lễ. Đến đâu Ngài sẽ trình sắc điệp và dâng lễ thì vua các nước sẽ tiếp rước trân trọng. Nhưng quan trọng hơn hết là vua muốn giới thiệu Ngài đến nước Thổ miền Tây, vì nếu nhờ vua nước ấy giúp đỡ cho thì mọi sự đều dễ dàng. Vì thế, vua sắp sẵn lễ vật giao cho Ngài là năm trăm cây gấm chở vào hai cỗ xe và một tờ sắc chỉ, cả thảy sẽ dâng lên vua nước Thổ miền Tây. Trong tờ sắc vua nói rằng: Đại Đức Huyền Trang đây vốn là anh em với trẫm, nay muốn qua Tây phương mà tìm đạo, nhân đi ngang ghé đến Đại vương, nhờ Ngài giúp đỡ cho thì kẻ viết mấy dòng này lấy làm cảm phục lắm...

Từ đó, nhờ có các vị vua chúa tiếp trợ, việc đi đường của Ngài không đến nỗi quá lận đận như lúc ban đầu. Nghĩ lại khi một mình ra khỏi Trường An, rồi trải qua các xứ lạ lùng, trong lưng không có một tờ giấy thông hành, chẳng có ai theo nâng đỡ, một sự rủi ro nhỏ nhặt cũng đủ hại mạng người. Nhưng đã có tâm thành thì Phật tổ hẳn chứng cho, nên mới tai qua nạn khỏi, lại được vua Cao-xương hết lòng giúp đỡ. Nhờ đó, đến đâu Ngài cũng vào thẳng chốn kinh thành, giao tiếp với các vị vua chúa, các vị danh sĩ. Nhất là sau khi trình sắc điệp giới thiệulễ vật lên vua Thổ miền Tây, Ngài cũng được vị này tận lực giúp sức, làm cho trăm việc đều hóa ra dễ dàng. Với những thuận lợi đó, Ngài được bình anđi thẳng vào gần đến Ấn Độ.

Tưởng đâu Ngài đã phải lưu lại mà đóng một vai quan trọng ở triều vua Cao-xương, nào ngờ vua ấy chẳng nỡ ép tình mà lại còn giúp cho mọi việc! Thật là nhờ lòng kiên nhẫn, ý chí kiên trì và tấm lòng thành tín của Ngài, mà bao nhiêu việc khó đều hóa ra dễ, bao nhiêu việc dở đều hóa ra hay.

Ngày rời Cao-xương, vua và quần thần cùng các nhà tăng với chúng dân đều đưa Ngài ra khỏi thành. Vua vừa tiễn chân vừa khóc. Ngài hứa khi trở về sẽ ghé thăm và ở lại ba năm với vua. Nhưng rồi sau vua băng hà trước, nên qua mười lăm năm Ngài trở về, không thể đáp lại tấm lòng xưa của vua.

Ngài Huyền Trang ra khỏi thành vua Cao-xương, bèn nhắm xứ Yen-ki mà đi tới, trải qua một hòn núi nổi tiếng là nhiều mỏ bạc. Yen-ki chính là xứ Qarashar bây giờ, vốn là một xứ phồn thịnh ngày xưa. Những đoàn bộ hành thường đi lại xứ này mà buôn bán. Nhưng ở những khoảng vắng, hay có quân cường đạo cướp giật của người. Ngài Huyền Trang chính mắt có trông thấy thi hài của nhiều thương gia nước ngoài, vì muốn mau tới chợ bèn tách riêng một mình, nên bị bọn cướp đón giật và giết đi. Chính Ngài cũng bị bọn ấy đón lại và đòi tiền mãi lộ.

Nhưng qua khỏi mấy khoảng vắng thì đến xứ Qarashar, chợ búa xem ra náo nhiệt lắm. Việc buôn bán đã thịnh phát mà nghề trồng trọt cũng ổn định nhờ có núi non bao phủ phía ngoài, có sông rạch nhiều và đồng ruộng mênh mông. Xứ ấy cũng chịu ảnh hưởng văn minh nhà Phật, mỹ thuật xem ra khéo léo, tinh xảo, vốn là gốc từ Ấn Độ đưa vào. Trong xứ có mười ngôi chùa với hai ngàn tăng sĩ, tu theo phái Tiểu thừa Tát-bà-đa. Vua là người mộ đạo trọng tăng, nên nghe tin Ngài Huyền Trang đến thì đưa cả quần thần ra ngoài thành để nghinh tiếp và rước vào, lại giúp cho Ngài những vật cần dùng để đi đường. Vua xứ này vốn không thích vua nước Cao-xương, vì thường bị áp bức và lấn lướt, nhưng vì đạo đức mà vẫn hoan nghênhủng hộ Ngài. Tuy vua trọng đãi Ngài, nhưng cũng dè dặt để quân lính theo Ngài ở ngoài thành. Ngài Huyền Trang nghỉ một đêm ở đó. Đến sáng ra từ tạ lên đường, thẳng tới xứ Khuất-chi. Đường tuy không bao xa, nhưng phải lần theo nhiều đỉnh núi cao, Ngài lấy làm mệt nhọc lắm. Ngài lại phải còn đi ngang một con sông to và lần qua một truông rộng mới đến xứ Khuất-chi. Đây là một tỉnh thành lớn nhất ở vùng Trung á. Dân cư giàu có và phần đông đều có tri thức, lanh lợi. Nghề canh nông rất thịnh với lúa gạo, khoai, bắp. Công nghệ cũng phát triển với nhiều mỏ vàng, mỏ bạc. Phong thổ ở đây điều hòa và tập tục hiền lương, chân thật. Nổi bật hơn hết là về âm nhạc, người xứ này có thể vượt hơn các nơi khác, xuất sắc về nghệ thuật thổi sáo và chơi đàn. Mỹ thuật cũng khéo léo có tiếng, như việc trang hoàng cung vua thì không xứ nào bằng. Các nơi đều nhận rằng đền đài, cung điện vua Khuất-chi đẹp như cảnh thần tiên. Ngài Huyền Trang là người tu, chỉ quan sát tình hình đạo đức, nên không để ý nhiều đến các sự việc thế tục. Nhưng đất nước con người xứ này quả thật là đẹp lắm. Nhất là bọn thương khách vẫn thích xứ Khuất-chi vì hàng phụ nữ ở đây mặn mà, yểu điệu, trang điểm coi tươi tắn, dịu dàng lắm. Trong xứ có nhiều dầu thơm, phấn tốt, hàng năm đều có xuất khẩu các mặt hàng này. Hàng phụ nữ đã xinh đẹp, dồi dào hương phấn, lại có tài đàn hát, với năng khiếu âm nhạc đa phần là bẩm sinh. Nghề đàn hát có danh tiếng, nhiều tài tử có truyền qua Trung Quốc những tác phẩm mà người ta rất thích. Đời nhà Đường, vua có đón một toán ca nhi xứ này qua để giúp vui trong những lúc lễ tiệc ở triều đình. Xứ Khuất-chi được khéo léo tinh xảo, một phần lớn là nhờ ảnh hưởng đạo đức và mỹ thuật bên Ấn Độ. Và bởi xứ này ở vào khoảng giữa, cho nên miền Viễn Đông học hỏi đạo lý nhà Phật cũng nhờ đến các vị tăng sĩ ở Khuất-chi truyền ra. Như vào khoảng thế kỷ thứ tư, trước ngài Huyền Trang vài trăm năm, có vị danh tăng là Cưu-ma-la-thập, là dòng dõi quý tộc, sang học đạo bên Ấn Độ rồi trở về xứ viết sách, dịch kinh. Bấy giờ nhằm lúc sứ Trung Hoa sang, Ngài nhân dịp ấy theo vào nước Trung Hoa và dịch nhiều bộ kinh. Xứ này không xa Ấn Độ, có nhiều chỗ phong cảnh đã gần giống với quê hương đức Phật Thích Ca. Ngài Huyền Trang lấy làm hân hạnh mà xem các tranh ảnh, hình tượng về nhà Phật. Vua lại là người rất mộ đạo, hằng bảo bọc, cung dưỡng hơn năm ngàn vị sư ở các chùa và rất kính trọng vị tăng trưởng, thường hỏi ý kiến luôn. Vua giao thiệp với nước Trung Hoa, giữ phận bề tôi, thường đem lễ cống nộp hàng năm cho hoàng đế Trung nguyên. Các đời vua trước đều thần phục Trung Hoa. Đến đời này, vua cũng có sai sứ qua nhà Đường để nạp lễ cho hoàng đế Thái Tông và có lãnh sắc ấn của vua nhà Đường.

Vua đã là người trọng tăng mộ Phật, lại thân mật với người Trung Hoa, nên nghe Đường tăng thỉnh kinh vừa đến thì vua sẵn lòng tiếp rước vào triều. Vua ngự cùng bá quan và các vị danh tăng ra ngoài thành để thỉnh Ngài.

Khi cả đoàn vào đến trong thành, có một vị sư đem cúng dường cho Ngài một số hoa thơm vừa mới nở. Ngài nhận lấy rồi đem rảy trước tượng Phật. Ngài lần lượt viếng qua các ngôi chùa. Trong xứ Khuất-chi có chừng mười ngôi, đến đâu các sư cũng dâng hoa cúng dường cho Ngài, rồi Ngài đem cúng dường trước tượng Phật.

Đạo Phật ở xứ Khuất-chi thuộc về Tiểu thừa. Tuy trước kia ngài Cưu-ma-la-thập có theo Đại thừa, song về sau không mấy ai theo gương ngài. Đức vua có thỉnh Ngài Huyền Trang cùng dự tiệc với các sư, song Ngài từ chối, vì tu sĩ Đại thừa dùng toàn chay, còn các vị tăng Tiểu thừa thì có dùng tịnh nhục. Và nói qua phần giáo pháp, triết lý thì hai bên lại càng có nhiều chỗ khác nhau. Học thuyết của các học tăng ở xứ này là dung hòa cả hai phái Tiểu thừa cố cựu là Tỳ-bà-sa-luận bộ và Tăng-ca-lan-da bộ, thiên về thực nghiệm. Còn phái Đại thừa mà Ngài Huyền Trang theo học thì lại thiên về siêu hình. Mặc dầu nhà sư đáng kính nhất trong xứ là Mộc-xoa-cúc-đa có trưng ra nghĩa lý của những bản kinh Tỳ-bà-sa luận và A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận, nhưng Ngài Huyền Trang đáp rằng: Ở nước bần tăng vẫn có hai bổn kinh ấy. Song bần tăng thấy nghĩa lý còn cạn hẹp nên mới lìa quê hương để tu học kinh điển Đại thừa, như bộ Du-già luận chẳng hạn. Liền đó sư trưởng Mộc-xoa-cúc-đa công kích học thuyết Đại thừa, bảo rằng đó là giáo lý mới mà người sau này đưa lẫn vào những học thuyết của đức Phật. Sư nói rằng: Tôi tưởng Ngài chẳng cần tu học theo những kinh điển ấy, chẳng qua chỉ là những sở kiến sai lạc thôi. Người đệ tử chân chính của Phật chẳng trì tụng những kinh điển ấy.

_ Trước sự biện bác của Mộc-xoa-cúc-đa, Ngài Huyền Trang vẫn hết sức điềm nhiênđáp lại. Vì ông này nói rằng tinh thông hai bộ luận Tỳ-bà-sa và Câu-xá, nên Ngài đề nghị ông trình bày một đoạn đầu của Câu-xá luận. Ngay khi đó, Ngài chỉ ra một lỗi lớn không đúng với kinh văn của ông này. Đoạn Ngài hỏi tiếp ông ta một câu khác, ông cũng không đáp được. Ngài Huyền Trang lại trích dẫn một đoạn trong Câu-xá luận để hỏi. Ông này ngay lập tức bác bỏ cho là không có đoạn này trong bản luận. Khi ấy, có người chú của vua là Tri-nguyệt đang ở đó, vốn là một người cũng tinh thông kinh luận. Ông mang bộ luận này ra và đọc lên đoạn trích dẫn ấy để minh chứng cho Ngài Huyền Trang. Mộc-xoa-cúc-đa vô cùng hổ thẹnđổ lỗi cho tuổi già đã làm ông lẫn lộn. Tuy nhiên, trong thâm tâm ông rất kính nể Ngài, vì cho dù Ngài chẳng theo Tiểu thừa mà còn thông bác kinh luận Tiểu thừa hơn cả người như ông.

Trong những cuộc tranh biện về đạo lý, vì lòng nhiệt thành đôi khi cũng không thể tránh được những sự đụng chạm gay gắt. Tuy nhiên, Ngài vẫn thừa nhận rằng các tăng sĩ ở đây học rộng về giáo lý Tiểu thừa và giữ được sinh hoạt tinh khiết theo giới hạnh. Ngược lại, vị danh tăng Mộc-xoa-cúc-đa tuy bị Ngài Huyền Trang biện bác, song thực sự kính phục, vẫn giữ mối cảm tình và thường thăm viếng Ngài luôn.

Vì phải chờ cho tuyết trên đường tan rã, Ngài
Huyền Trang phải ở lại xứ Khuất-chi hai tháng. Đến khi trời quang khí ấm, Ngài lại tiếp tục lên đường. Vua cấp cho Ngài những người theo giúp việc, lạc đà, ngựa và các đồ vật dụng. Thành ra một đoàn lữ hành nghiêm chỉnh. Vua lại còn ngự giá đưa Ngài ra khỏi thành rất xa, có bá quan, các vị tăng và dân chúng trong thành theo đưa đông đảo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28284)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6740)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8856)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9389)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15519)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8319)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8744)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16819)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 27104)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18808)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15739)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22674)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19617)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18504)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16332)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25772)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12966)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37946)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20224)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10783)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10134)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10605)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10453)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11090)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15358)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10916)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19817)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11783)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10867)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11316)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10178)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10639)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11625)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10960)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11489)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12221)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11130)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13095)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17902)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15342)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15844)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11062)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12194)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11118)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 22016)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12178)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9246)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20251)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17362)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10156)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant