Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Quán Âm thâu tứ đại Kim Cang

05 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7474)
8. Quán Âm thâu tứ đại Kim Cang

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu

8. QUÁN ÂM THÂU TỨ ĐẠI KIM CANG

Bồ Tát Quán Âm thâu Long NữThiện Tài rồi thì Phổ Đà Sơn, đạo tràng của Ngài trở nên càng ngày càng hưng thịnh, khách hành hương càng ngày càng đông đảo, xa gần ai cũng nghe danh và còn gọi đảo này là Hải Thiên Phật Quốc.

Bốn đại Thiên Vương hộ vệ cửa Nam Thiên nghe thế, quyết định chính mắt mình nhìn thấy mới tin, thế là mỗi vị cầm vũ khí của mình, cưỡi mây lành hướng về Phổ Đà Sơn.

Bốn đại Thiên Vương còn được gọi là bốn đại Kim Cang.

Quan điểm nhà Phật chia vũ trụ này làm ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Ở cõi Dục có Lục dục thiên, và tầng trời thứ nhất của Lục dục thiên, gần với thế gian nhất, chính là Tứ Thiên Vương Thiên, là nơi ngự trị của bốn vị Kim Cang này. Kinh Phật nói các vị này trụ ở lưng chừng núi Tu Di, ở đấy có ngọn Kiên Đà La, và ngọn này có bốn đỉnh tên là Tu Di Tứ Bảo Phong (bốn đỉnh báu của núi Tu Di).

Nhiệm vụ của bốn Đại Thiên Vương là mỗi ngài bảo hộ một phương của thế gian, vì thế bốn Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương.

Vị Thiên Vương ở phương đông tên là Trì Quốc Thiên Vương, âm Phạn là Đa La Sất (Dhṛ­tarāṣṭra), thân màu trắng, mang áo giáp mũ sắt, tay cầm cây đàn tì bà. Trì Quốc có nghĩa là giữ gìn bảo vệ cho cõi nước, vì ngài lấy từ bi làm đầu, bảo hộ chúng sinh. Vị này là thần âm nhạc nên tay cầm cây đàn tì bà, lấy âm nhạc để cảm hóa chúng sinh quy y Phật giáo. Thiên Vương này có tên khác là “Điều”.

Thiên Vương ở phương nam tên là Tăng Trưởng Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Ly (Virūḍhaka), thân màu xanh, mang áo giáp mũ sắt, tay nắm bảo kiếm. Vị Thiên Vương này có nhiệm vụ là làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, hộ trì Phật giáo, nên tay cầm bảo kiếm để bảo vệ cho Phật Pháp không bị xâm phạm. Vị này còn có tên là “Phong”.

Thiên Vương của phương tây tên là Quảng Mục Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Bác Xoa (Virū­pākṣa), thân màu đỏ, tay có quấn con rồng. Quảng Mục có nghĩa là dùng tịnh thiên nhãn để luôn luôn quán sát thế gian, hộ trì nhân dân. Tay cầm con rồng, hay cũng có thể coi như sợi dây thừng màu đỏ, nghĩa là dùng dây thừng trói người không tin Phật, khiến cho họ quy y Phật giáo. Vị này còn có tên là “Thuận”.

Thiên Vương của phương Bắc tên là Đa Văn Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), thân màu đen, mang mũ giáp, tay cầm dù báu. Vị này dùng phúc đức để nghe ngóng khắp bốn phương, dù báu là để chế phục chúng ma, bảo hộ tài sản của nhân gian. Vị này còn có tên là “Vũ”.

Bốn vị Thiên Vương, hay còn gọi là bốn đại Kim Cang, hợp nhau để mang lại “phong điều vũ thuận” cho nhân gian.

Bốn vị Thiên Vương này là những vị thiên tướng lừng lẫy, người cao lớn, so với bậc thần tiên thường thì cao lớn gấp mười lần.

Bốn vị Kim Cang uy phong lẫm lẫm bước xuống bãi cát Thiên Bộ Sa, lấy đường Vân Đầu, dọc theo đường Ngọc Đường vừa đi vừa ngắm cảnh núi. Họ thấy trên núi tự viện hùng tráng, chùa chiền mọc như rừng, cây cổ thụ cao chọc trời, hoa cỏ xanh rì rậm rạp, sóng biếc, cát vàng bủa quanh tứ bề, nên bị cảnh Hải Thiên Phật Quốc làm cho mê đắm, thật quả danh bất hư truyền, nên trong lòng ngầm thán phục.

Họ vừa đi vừa thưởng ngoạn,vừa đi vừa say sưa nhìn ngắm nên đến giờ ăn cơm trưa lúc nào mà không hay. Họ đã ra đi lúc trời tảng sáng, đi không biết bao nhiêu là dặm đường, đến giờ là đã hơn nửa ngày trời nên cảm thấy bụng đói cồn cào, ruột sôi sùng sục, vội lo tìm xuôi tìm ngược xem có chỗ nào bố thí cơm chay mà tìm mãi không có. Trên thiên giới, bốn đại Kim Cang vốn quen muốn gì được nấy ngay, chưa bao giờ phải chịu cảnh đói khát như thế này nên tìm hoài mà không có gì ăn đâm ra cáu kỉnh, một vị Thiên Vương nổi giận la lên:

Đạo tràng của vị Bồ Tát này chỉ là hư danh, cái gì mà một bát cơm chay cũng không có chỗ nào bố thí cả!

Bốn đại Thiên Vương bản tánh vốn nóng nảy, gặp điều không vừa ýlửa giận bùng lên ngay, thế là cả bốn nhao nhao đả kích:

Đại sĩ với chẳng tiểu sĩ, thật là không biết điều chút nào, bốn đại Kim Cang chúng ta giá lâm mà tại sao lại không ra đón tiếp!

Đại sĩ dỏm, không biết nể mặt anh em chúng ta gì cả, khi nào gặp thì thế nào cũng phải làm cho bà ta biết tay mới xong!

Bồ Tát Quán Âm thật ra đã biết sự có mặt của bốn đại Kim Cang từ lâu, nay nghe họ càu nhàu như thế, trong lòng không khỏi buồn cười, lập tức nảy ra một ý kiến.

Đương lúc bốn vị Kim Cang đang lớn tiếng mạt sát, bỗng nhiên từ rừng trúc tím trước mặt bay ra một làn khói bếp. Họ bèn rảo bước về phía rừng trúc tím, tìm quanh một lúc mới thấy khói bếp ấy là từ một căn nhà bé nhỏ, vừa thấp vừa hẹp bay ra. Bốn đại Kim Cang nhìn qua khe cửa thì thấy trong nhà có một thiếu phụ đang ngồi trước bếp nhóm lửa thổi cơm.

Thiếu phụ trạc ngoài 30 tuổi, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ an tường, trang nhã. Cơm thổi đã chín, từng cụm, từng cụm khói thơm phức bay lọt ra ngoài khiến cho bốn đại Kim Cang càng cảm thấy đói thêm, không chờ được nữa, bèn gõ cửa nói:

– Cô nhỏ ơi, chúng tôibốn đại Kim Cang từ thiên giới xuống đây, xin cô bố thí cho chúng tôi nồi cơm ấy đi!

Người thiếu phụ chẳng tỏ vẻ gì là kinh sợ, trả lời:

– Mời quý vị vào nhà. Nồi cơm này là để đãi khách, đủ cho bốn vị dùng.

Bốn đại Kim Cang muốn bước vào nhà nhưng người nào cũng cao lớn, nhà lại nhỏ hẹp cao không tới đầu gối của họ, làm sao chui vào cho lọt đây? Họ còn đang lúng túng, người thiếu phụ mỉm cười thúc giục:

– Quý vị vào đi chứ, tại sao lại không vào?

Bốn vị quá muốn ăn cơm nên đành cúi đầu uốn lưng tiến vào nhà. Kỳ lạ thay, bước vào rồi thì căn nhà bé nhỏ ấy dường như được nới rộng ra, bốn vị Kim Cang có thể cử động thư thái, không thấy nhà nhỏ hẹp nữa mà còn thấy rộng rãi thoải mái là khác.

Người thiếu phụ mời họ ngồi xung quanh một cái bàn vuông và nói:

– Tôi xới cơm cho quý vị dùng.

Một vị Kim Cang nói:

– Cô nhỏ à, chúng tôi đói rã rời rồi, anh em chúng tôi lại ăn rất khoẻ, xin cô làm ơn nấu thêm cơm chứ cái nồi bé tí thế kia sợ không đủ cho chúng tôi no.

Ba vị còn lại cũng phụ họa:

– Đúng rồi, đúng rồi, nồi cơm bé tí ăn không đủ no.

– Xin bốn vị tướng quân yên lòng, đừng thấy nồi nhỏ mà lo sợ, cơm trong nồi ấy đủ cho quý vị ăn no bụng.

Người thiếu phụ nói rồi, xới cơm vào bốn cái bát đem đến bàn rồi tiếp:

– Nồi hãy còn cơm, quý vị dùng xong hãy tự tiện xới thêm, tôi ra ngoài giặt quần áo một chút, không ở lại hầu chuyện với quý vị được. Mời quý vị tự nhiên ăn cơm cho no.

Nói xong cô bèn xách một cái giỏ bước ra khỏi nhà. Bốn đại Kim Cang vội vàng nâng bát, vừa ăn vừa canh chừng nồi, ai cũng nghĩ “cái nồi có chút xíu, cơm này thì đủ cho ai ăn, ta nên ăn cho mau để xới trước”. Cả bốn người đều nghĩ như nhau nên ai nấy đều ăn thật mau. Kết quả là vị Kim Cang mặt trắng ăn xong trước, chỉ và mấy cái là cả bát cơm đã vào bụng, thế là vị này chạy mau như bay đến trước bếp lửa mở nồi xúc cơm. Nào ngờ cái vung như thể bị gắn dính vào nồi, không cách nào dở lên. Ông bèn buông bát xuống, dùng hai tay để mở nồi, dùng hết cả sức lực mà cái vung vẫn trơ trơ bất động.

Vị Kim Cang mặt trắng đỏ mặt tía tai, đứng ngây người ra. Vị Kim Cang mặt đen cũng vừa ăn xong bát cơm bèn qua xúc thêm, thấy vị Kim Cang mặt trắng mở vung không ra bèn cười chế nhạo và đẩy vị ấy sang một bên, tự mình đến giở nồi. Ông những tưởng việc này dễ như trở bàn tay mà thử mấy lần không xong, bèn đứng dạng hai chân, dồn hết sức mạnh nắm chặt vung, nhưng vì dùng sức quá mạnh, vung đã không nhúc nhích mà nồi lại vuột ra khỏi bàn tay khiến ông ngã lăn đùng xuống đất, giận quá chửi toáng lên.

Hai vị Kim Cang còn lại cũng đến thử và cũng thất bại, họ dùng sức đến đâu đi nữa vung vẫn dính chết vào nồi, trơ trơ bất động!

Cuối cùng, bốn vị Kim Cang bèn đứng xếp thành hàng, vị đứng đầu cầm vung, vị đứng sau ôm bụng vị đứng trước, hễ nghe hiệu lệnh thì cùng nhau kéo về phía sau: “dô ta! dô ta!”. Họ dùng hết sức lực để “nhổ” cái vung ra khỏi nồi như người ta nhổ một củ cải ra khỏi đất, nhưng cái vung vẫn không hé ra chút xíu nào! Bốn vị cứ kéo tới kéo lui một hồi lâu, mệt quá nằm dài xuống đất thở phì phò, không còn nhúc nhích được, thật là xấu hổ!

Bỗng có tiếng cửa mở, người thiếu phụ bước vào phòng, thấy bốn đại Kim Cang nằm la liệt dưới đất nhăn răng méo miệng, buồn cười quá mà vẫn phải làm bộ kinh ngạc:

– Hẳn là bốn vị tướng quân ăn no rồi nên nằm xuống nghỉ ngơi chăng?

Vị Kim Cang mặt đỏ vội vàng cải chính:

– Không phải, không phải, chúng tôi chưa ăn xong, mới chỉ ăn được có một bát cơm mà thôi!

Người thiếu phụ nói:

– Tại sao quý vị không ăn cho xong? Hay là quý vị chê nồi nhỏ, cơm trong nồi hãy còn đầy mà, sao quý vị không múc ăn thêm?

Vị Kim Cang mặt đỏ đáp:

– Vì mở vung không ra!

Thiếu phụ nói:

– Sao lạ vậy? Cái vung bé tí ti thế này, bốn vị tướng quân sao lại mở không ra? Bốn vị là thiên tướng lừng danh trên thiên giới, sức mạnh vô địch, làm gì dở không lên một cái vung?

Bốn đại Kim Cang không trả lời được, người nào cũng cảm thấy ngượng ngùng, nhìn nhau không nói mà trong lòng phát hoảng.

Mọi người còn đang nghĩ ngợi thì người thiếu phụ bước đến trước bếp, đưa tay ra nhẹ nhàng nhấc vung lên và nói:

– Vung dễ mở lắm mà, bốn vị tướng quân, xin mời dùng thêm cơm!

Bốn đại Kim Cang sững sờ nhìn người thiếu phụ nhấc cái vung một cách ung dung nhẹ nhàng, nghĩ lại ban nãy bốn anh em phí bao nhiêu sức mà giở mãi không ra, cảm thấy thật là bất khả tư nghì!

Vị Kim Cang mặt trắng cuối cùng nhanh trí nhất, trong thoáng chốc hiểu rõ ngọn nguồn, biết người thiếu phụ này không phải là người phàm, sau đó thoắt nhiên tỉnh ngộ la lên:

– Ối! Tôi hiểu rồi! Ngài là Quán Âm đại sĩ, anh em chúng con không thấy núi Thái Sơn, xin Bồ Tát thứ lỗi!

Ba đại Kim Cang kia cũng lớn tiếng nói:

Bồ Tát thứ lỗi! Xin Bồ Tát tha thứ cho bọn chúng con ngu si!

Nói rồi, bốn đại Kim Cang quỳ xuống trước mặt người thiếu phụ dập đầu lạy liên tiếp. Quán Âm Đại sĩ mỉm cười:

– Xin bốn đại tướng quân đứng dậy, đứng dậy đi, dùng cơm xong hãy nói chuyện.

Ăn cơm xong, bốn đại Kim Cang nói:

Đa tạ Đại sĩ, hôm nay chúng con nhờ ơn từ bi của Bồ Tát, vô vàn cảm tạ, bây giờ xin phép Đại sĩ cho chúng con trở về thiên đình.

Quán Âm Đại sĩ nói:

Bốn đại tướng quân còn muốn trở về sao? Bốn vị muốn trở về thì không có vấn đề gì, tuy nhiên uy danh của bốn vị chấn động thiên đình, hôm nay chỉ có một cái vung mà nhấc không lên, chỉ e... thiên binh thiên tướng có còn tôn trọng quý vị chăng? Hay là họ sẽ cười chê? Theo ta nghĩ, hay là các vị ở lại đây theo ta tu hành, các vị nghĩ sao?

Sự thật, khi Bồ Tát Quán Âm biết có bốn đại Thiên Vương đến Phổ Đà Sơn, Ngài nghĩ rằng đất này đang thiếu thần hộ Pháp, nếu có cách nào giữ bốn đại Kim Cang này ở lại thì thật là thích hợp! Vì thế Ngài đã lập ra một kế kích thích ngạo khí của họ để giữ họ ở lại.

Bốn đại Kim Cang nghe Quán Âm Đại sĩ nói như thế thì không có lời lẽ nào để trả lời, thật sự họ không còn mặt mũi nào mà trở về thiên đình nữa.

Trải qua chuyện này rồi họ mới được thấy uy lực của Phật Phápthần thông vô tỉ của Bồ Tát Quán Âm. Họ vô cùng kính phục Đại sĩ, đồng lòng chấp thuận ở lại Phổ Đà Sơn, theo ngài Quán Âm học Phật Pháphộ vệ Phổ Đà Sơn.

Từ đấy, ở hai bên trái và phải của Thiên vương điện xuất hiện những bức tượng uy vũ hùng tráng của bốn đại Thiên Vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18208)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13173)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21133)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32554)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12341)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27480)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12132)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34917)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17730)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11804)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12641)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14564)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32451)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19454)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14082)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15311)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14136)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14120)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53144)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13917)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20682)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13430)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13607)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34153)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14069)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13550)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13500)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27726)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13892)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24933)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13942)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31311)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13859)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14957)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant