Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Tông chỉ lập giáo

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10611)
Chương I: Tông chỉ lập giáo

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương I
Tông chỉ lập giáo

Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng, không có tướng riêng nào để chấp giữ, thì làm gì có chỗ tịnh chỗ uế! Vì như biển cả, nên tánh của nó mềm mại uyển chuyển, thường tùy duyên mà không trái nghịch, lẽ nào không có lúc động lúc yên? Như thế, hoặc do gió trần cảnh mà bị luân chuyển mãi trong năm trược[3], đắm chìm hoài trong biển khổ; hoặc nhờ sức lành mà cắt đứt bốn dòng[4], thẳng đến bờ kia hằng vắng lặng. Nói theo tánh giác bình đẳng thì động tĩnh này đều là đại mộng, vì không có đây, không có kia, cõi tịnh cõi uế vốn chỉ một tâm, sinh tử và Niết-bàn chẳng phải hai mé. Nhưng muốn quay về nguồn giác thì cần phải nhóm chứa công đức mới thành, còn chạy theo dòng mộng thì không thể nào khai ngộ. Vì thế, Thánh nhân lưu dấu vết có xa có gần, giáo pháp được giảng thuyết có lúc thịnh lúc suy. Đến như đức Thích-ca Mâu-ni thị hiện ở cõi Ta-bà này ngăn năm điều ác, khuyên làm điều lành; đức A-di-đà Như Lai giáo hóa cõi An Dưỡng kia lập chín phẩm vãng sinh. Những phương tiện giáo hóa của chư Phật như thế, không thể trình bày hết được.

Nay nước Cực Lạc được trình bày ở đây chính là cảm hạnh nguyện sâu kín, ứng quả đức cao xa. Thập bát viên tịnh[5] vượt trên ba cõi, tướng hảo của năm căn hơn hẳn trời Lục Dục. Pháp vị hương báu nuôi dưỡng thân tâm, làm gì có nỗi khổ ngày đêm đói khát; gió thơm rừng ngọc thường xuyên thổi mát, hoàn toàn không có niềm lo lạnh, nóng, Hạ, Đông. Chư Tiên cùng tụ họp, thường tắm nước tám đặc tính[6] trong ao sen, nhờ đây mà người sinh về cõi này vĩnh viễn giã từ thời đại đáng chán; bạn tốt cùng đi theo, dạo chơi các cõi Phật khắp mười phương, nhờ đây mà xa lìa hẳn những buồn phiền khó an ủi. Huống nữa lại còn thường được nghe âm thanh thuyết pháp để nhập vào Vô tướng, được thấy ánh hào quang của Phật mà tỏ ngộ Vô sinh. Vì ngộ Vô sinh nên không đâu không được sinh, do nhập Vô tướng nên khắp nơi đều hiện tướng. Cực tịnh cực lạc, nên tâm ý không thể lường được; không bờ không mé, nên ngôn từ không sao tải hết. Như thế, Tịnh độ là nơi được chư Phật mười phương khen ngợi khuyên sinh về, là chỗ mà Thánh chúng Tam thừa đều nương ở. Nhưng xét kỹ lại những ý khen ngợi và khuyên sinh của Như Lai chính là Ngài muốn tiếp độ các bậc trung cănhạ căn, do Ta-bà là thế giới tạp nhiễm nên có rất nhiều duyên lui sụt; còn An Dưỡng là cõi báu hoàn toàn an lành, chỉ có tiến chứ không lùi. Cho nên, luận Khởi Tín chép: “Những chúng sinh mới tu học pháp này, muốn cầu chánh tín mà tâm thường khiếp nhược. Vì ở cõi Ta-bà này sợ không được gặp chư Phật để đích thân cúng dường, khó thành tựu lòng tin, nên tâm chí liền lui sụt”.

Nên biết rằng Như Lai có rất nhiều phương tiện tối thắng để giữ vững tín tâm, đó là nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, tùy nguyện mà được sinh về cõi Phật ở phương khác, thường được gặp Phật, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Như trong Khế Kinh có dạy: “Nếu người chuyên tâm niệm Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc, đem những căn lành đã tu tập, hồi hướng mong cầu sinh về thế giới Cực Lạc liền được vãng sinh, thường được gặp Phật, hoàn toàn không còn thoái chuyển. Nếu người quán tưởng Pháp thân Chân như của Đức Phật A-di-đà, thường tinh tấn tu tập, cuối cùng được vãng sinh, đạt được chánh định”. Tất cả phàm phu tuy có niệm Phật, nhưng chưa đạt đến hàng Thập giải[7] thì còn ở vị lui sụt. Ở cõi uế có bốn duyên khiến người lui sụt, cõi tịnh có bốn duyên khiến người không lui sụt:

1. Ở cõi tịnh mạng sống lâu dài không có bệnh tật, cho nên không lui sụt; còn cõi uế, mạng sống ngắn ngủi, lại nhiều bệnh tật, cho nên lui sụt.

2. Cõi tịnh có chư Phật, Bồ-tát và thiện hữu tri thức, cho nên không lui sụt. Như trong kinh dạy: “… Được cùng ở chung một chỗ với các bậc Thượng thiện nhân”; cõi uế có nhiều bạn ác cho nên lui sụt.

3. Cõi tịnh không có người nữ, nên đối tượng của sáu căn hoàn toàn là những duyên tiến tu đạo nghiệp, nên không lui sụt. Như kinh dạy: “Mắt nhìn thấy sắc, liền phát tâm Bồ-đề…”; cõi uế do có người nữ, nên lui sụt.

4. Cõi tịnh chỉ có thiện tâm, nên không lui sụt. Kinh chép: “Không có một mảy may tâm tạo ác”; cõi uế do có tâm ác, tâm vô ký, nên lui sụt. Lại nữa, trong hai bộ kinh đều nói: “Người vãng sinh đều được không lui sụt, chứ không nói chỉ người không lui sụt mới được vãng sinh”. Giống như người trong cõi Ta-bà có đủ ba thọ[8], nếu sinh về cõi kia thì không có khổ thọxả thọ mà chỉ có lạc thọ.

Tóm lại, từ hàng Sơ địa trở lên thì bi nguyện[9] tự tại, không nơi nào mà không sinh về, nên cần gì phải khuyến hóa. Hàng Thập giải trở đi thì do Chủng tánh quyết định[10], lại không lo lui sụt, nên cũng không phải là chánh cơ[11]. Hàng Thập tín trở về trước và hàng phàm phu do phát tâm chưa kiên cố, cho nên tùy theo duyên mà lên xuống, chán cõi uế, ưa cõi tịnh, nên Phật mới ân cần khuyến hóa. Cõi Tây Phương tuổi thọ lâu dài, tu tập một đời thì Đăng địa[12]; còn cõi Ta-bà mạng sống ngắn ngủi, nhiều kiếp nhọc nhằn vẫn còn lui sụt. Cho nên, kinh Hoa Nghiêm nói: “Ở thế giới Ta-bà này một kiếp bằng một ngày một đêm ở cõi Tây Phương An Lạc. Như thế, cho đến một kiếp ở thế giới sau cùng trong trăm vạn a-tăng-kỳ thế giới, chỉ bằng một ngày một đêm của cõi Hiền Thủ Như Laithế giới Liên Hoa Tối Thắng”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10209)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11265)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13607)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13756)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22254)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21887)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27420)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17819)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11750)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12338)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25264)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23312)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28623)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22805)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22336)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14022)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13454)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22525)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26427)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18507)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18984)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34559)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27420)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28469)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21432)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14926)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19234)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10637)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18592)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15684)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13203)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13436)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14047)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11813)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11647)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11356)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11917)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19959)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12413)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13959)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13282)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32019)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13454)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12768)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13347)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11910)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21900)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11111)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12917)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant