Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II: Xác định vị trí cõi Cực Lạc

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10785)
Chương II: Xác định vị trí cõi Cực Lạc

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương II
Xác định vị trí cõi Cực Lạc

Cõi Phật cùng khắp, không có Đông Tây, nhưng vì tiếp độ nhiều hạng căn cơ, nên mới hiển bày đây kia. Do đó, luận về vị trí của cõi tịnh thì Nhất thừa, Tam thừa trình bày không đồng. Theo Nhất thừa thì Cực Lạc Tịnh độ thuộc về Hoa Tạng Thế Giới Hải. Vì sao? Bởi vì cõi Thập Phật[13] viên dung không thể trình bày. Chỗ thấy của Phổ Hiền Nhân phần[14] là vô hạn. Nếu theo Tam thừa thì Tây Phương Tịnh độ phân thành bốn cõi: 

- Cõi Pháp Tánh
- Cõi Thật Báo
- Cõi Thọ Dụng
- Cõi Biến Hóa.

Cõi Pháp Tánh và Thật Báo thì thuần một vị an lạc, cùng khắp pháp giới, cõi khác chẳng thể sánh bằng. Cõi Thọ Dụng và cõi Biến Hóa thì đáp lại nguyện, ứng theo cảm, tùy theo tâm ưa thích của căn cơ chúng sinh mà chỉ ra các phương sở. Cho nên, trong kinh Tiểu Vô Lượng Thọ chép: “Ở phương Tây cách đây hơn mười vạn ức cõi Phậtthế giới tên là Cực Lạc”. Nay đem chỗ tịnh và bất tịnh của thế giới kia, lược nêu ra bốn đôi đối đãi để trình bày thứ hạng. Đó là: nhân và quả, hoàn toàn và không hoàn toàn, thuần và tạp, chánh định và phi chánh định.

1. Nhân và quả

Chỗ trụ của Bồ-tát ở giai vị Kim cương trở về trước gọi là Quả báo độ, không gọi là Tịnh độ vì chưa lìa được quả khổ nạn, chỉ có chỗ của Phật mới được gọi là Tịnh độ, vì tất cả hoạn nạn, nhiễm ô đã diệt sạch. Căn cứ theo nghĩa này, kinh Nhân Vương nói: “Tam Hiền Thập Thánh[15] trụ ở quả Báo độ, chỉ có Phật mới ở Tịnh độ. Tất cả chúng sinh tạm thời trụ ở quả Báo độ, Bồ-tát giai vị Kim cương[16] mới ở Tịnh độ”.
2. Hoàn toàn và không hoàn toàn

Chỗ trụ của Bồ-tát từ Địa thứ tám trở lên được gọi là Tịnh độ, vì hoàn toàn vượt ra khỏi ba cõi, đầy đủ bốn nghĩa hoàn toàn. Tất cả trụ xứ của Bồ-tát từ Địa thứ bảy trở về trước chưa được gọi là Tịnh độ vì chưa hoàn toàn vượt ra ba cõi, hoặc chỉ nương vào nguyện lực vượt ra ba cõi. Không đầy đủ bốn nghĩa hoàn toàn là: hoàn toàn an lạc, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn không có tai nạn, hoàn toàn tự tại. Khi Bồ-tát từ Địa thứ bảy trở về trước xuất quán thì có lúc sinh khởi tâm Vô ký báo[17], bốn hoặc của Mạt-na[18] có lúc hiện hành, bấy giờ hoàn toàn không thanh tịnh, chẳng phải hoàn toàn không có hoạn nạn, còn Địa thứ tám trở lên thì không như thế. Căn cứ theo nghĩa này mà luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Pháp xuất xuất thế là do công năng của pháp thiện thế gian sinh ra”.

Giải thích: Nhị thừa thì gọi là xuất thế, từ Địa thứ tám trở lên cho đến quả vị Phật gọi là xuất xuất thế. Pháp xuất thế đối trị với pháp thế gian; còn pháp xuất xuất thế thì đối trị pháp xuất thế. Lấy bốn duyên[19] làm tướng, từ công đức thiện xuất xuất thế sinh khởi cõi tịnh này, chứ không phải từ nhân Tập đế.
3. Thuần và tạp

Chỗ ở của hàng Nhị thừaphàm phu không được gọi là thế giới thanh tịnh, chỉ có chỗ ở của Bồ-tát Thập địa mới được gọi là thế giới thanh tịnh; cõi kia chẳng phải thuần thanh tịnh, cõi này mới thuần thanh tịnh. Căn cứ theo nghĩa này, luận Du-già nói: “Thế giới thì có vô lượng, nhưng chia làm hai loại: đó là thanh tịnhbất tịnh. Trong thế giới thanh tịnh hoàn toàn không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng không có cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, chúng Bồ-tát trụ trong đó, cho nên gọi là thế giới thanh tịnh. Bồ-tát Địa thứ ba, do nguyện lực mà thọ sinh ở cõi đó, nơi ấy hoàn toàn không có hàng Dị sinh[20], kể cả Thanh văn, Độc giác. Nếu là Bồ-tát mới được sinh vào”.

Giải thích: Địa thứ ba này vốn là Hoan hỷ địa, vì căn cứ theo bảy địa, nên Địa thứ ba này là Tịnh thắng ý lạc địa. Bảy địa là do gom 13 địa mà thành.

4. Chánh định và Phi chánh định

Nơi sinh về của ba nhóm chúng sinh là cõi uế; còn nơi chỉ có Chánh định tụ cư trụ mới gọi là Tịnh độ. Trong đó cũng có cả bốn quả Thanh văn và bốn nghi phàm phu, chỉ khôngTà định tụBất định tụ mà thôi. 

Nói về Chánh định tụ, tất cả chúng sinh gom thành ba nhóm. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Những chúng sinh sinh vào cõi Cực Lạc đều được trụ vào Chánh định tụ”. Vì sao? Vì trong cõi Phật kia, không có các loại Tà định tụBất định tụ. Tướng của ba tụ như thế nào? Nếu nói chung thì Nhất-xiển-đề là thuộc Tà định tụ, hàng Nhị thừa Đảnh vị trở lên và Bồ-tát sơ phát tâm trụ trở lên được cho là Chánh định tụ. Nếu đã thú nhập[21] mà chưa đạt được địa vị ấy là Bất định tụ, nhưng chắc chắn không thoái lui, không đoạn thiện căn. Như thế gọi là Chánh định tụ.

Theo luận Du-già thì Chánh định có hai: một là Bản tánh chánh định, hai là Tập thành chánh định. Trong năm chủng tánh[22] thì người thuộc chủng tánh Bồ-tát không tạo Ngũ nghịch[23] và không đoạn mất thiện căn, gọi là Bản tánh chánh định tụ. Hàng chủng tánh Nhị thừaBất định tánh có thể tạo tội Ngũ nghịch và đoạn mất thiện căn, khi đoạn mất thiện căn thì gọi là Tà định tụ. Những người này sau khi nối lại thiện căn, nhưng chưa thú nhập là Bất định tụ. Khi đã thú nhập rồi thì có ba phẩm loại: hạng Thượng căn vốn có mà thú nhập tức là Chánh định. Hạng trung căn đến Noãn vị và hạng hạ căn đến Đảnh vị đều là Chánh định, còn lại đều thuộc về Bất định. Như thế, người thuộc Bất định chủng tánh thú nhập thẳng Đại thừa, tín tâm tu hành, trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu mới được gọi là Chánh định. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín trình bày nghĩa này là nói theo Tập thành chánh định tụ. Còn như Bồ-tát chủng tánh vốn có, vừa thú nhập thẳng Đại thừa thì vĩnh viễn đạt được Bất thoái. Không do nghiệp lực mà bị đoạ vào cõi ác. Do đó, những người này vừa dự vào hàng Thập tín thì liền được Bất thoái, không giống như hạng người thuộc Bất định tánh đã nói ở trước.

Nói như thế là đều căn cứ vào cõi uế. Nếu căn cứ theo việc được sinh về cõi tịnh, thì hàng Định tánh Nhị thừa không được vãng sinh, hoặc sau khi nhập Vô dư thì có thể được vãng sinh. Trong Bất định tánh, nếu ba hạng người ấy đều phát tâm thì đều được sinh vào Tịnh độ. Khi sinh vào Tịnh độ liền nhập vào Chánh định, nhờ sức duyên bên ngoài giữ gìn

Nghĩa Tam tụ được phân biệt sơ lược như thế.

Nay kinh này nói cõi Vô Lượng Thọcăn cứ vào môn thứ tư mà nói là Tịnh độ. Vì sao? Vì muốn gom nhiếp Đại thừaTiểu thừa, dẫn dắt cả phàm Thánh đều được sinh về cõi tối thắng, cùng hướng đến Đại đạo. Như đoạn văn dưới ghi: “Nếu sau khi Ta thành Phậtnhân dân trong nước Ta không trụ Chánh định tụ, không nhất định đạt đến diệt độ thì Ta quyết không ở ngôi Chánh Giác”. Lại nói: “Ví như Ta thành Phật mà hàng Thanh văn trong nước Ta có thể tính đếm biết được số lượng thì Ta không ở ngôi Chánh Giác”. Nhưng Luận lại nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được sinh về là nói hàng Định tánh Nhị thừa chưa nhập vào Vô dư, chưa phát tâm Đại thừa, chứ không nói đến hàng Thanh văn Bất định tánh và Định tánh sau khi ra khỏi Vô dư. Để phân biệt với điều này, nên kinh nói như thế, do đạo lý này mà hai nghĩa không trái nghịch nhau. Lại nói người nữ cho đến người thiếu căn, nghĩa là khi sinh về cõi Cực Lạc, thì chẳng còn là nữ, chẳng còn là người thiếu căn chứ chẳng phải người nữ v.v… không được vãng sinh, vì bà Vi-đề-hy vẫn được vãng sinh. Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni chép rằng: “Đức Phật A-di-đà có cha tên là Nguyệt Thượng Chuyển Luân Thánh vương, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhãn v.v…, hoặc cho rằng cõi Đức Phật giáo hóa là cõi Hóa Độ; luận thì cho rằng đó là cõi Thọ Dụng; hoặc nói là cha mẹ của Pháp môn như trong kinh Duy-ma. Do đạo lý này mà hai thuyết không trái nghịch nhau. Cõi tịnh được nói ở bốn môn trên đều là cõi được thành tựu từ hạnh nguyện của Như Lai, chẳng phải là cõi do sức người được sinh về tạo ra và hoàn toàn không như khí thế giới ở cõi uế, chỉ do quả khổ của chúng sinh tạo thành, cho nên gọi chung cõi ấy là cõi thanh tịnh.

 
Giải thích Pháp số

[1] (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1123).

[2] Bách Tòa Nhân Vương Kinh: một ngày mở 100 tòa để giảng kinh Nhân Vương (TĐĐPB).

[3] Năm trược: năm thứ cặn đục khởi lên trong Kiếp giảm. Theo thuyết của kinh Bi Hoa, q. 5, Pháp Uyển Châu Lâm, q. 98, Ngũ trược chỉ cho:

1. Kiếp trược: vào thời Kiếp giảm, lúc tuổi thọ con người rút ngắn còn 30 tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn 20 tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra, lúc giảm còn 10 tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.

2. Kiến trược: chánh pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.

3. Phiền não trược: chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua nịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.

4. Chúng sinh trược: chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới

5. Mạng trược: thời xưa con người thọ tám vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm. 

Trong năm trược thì Kiếp trược là Tổng, bốn trược còn lại là Biệt. Trong bốn trược thì Kiếp trượcPhiền não trược làm tự thể mà tạo thành Chúng sinh trược và Mạng trược (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3044).

[4] Tứ lưu (còn gọi Tứ bộc lưu, Tứ đại bộc hà, Tứ bộc hà): Bốn thứ phiền não mạnh như dòng thác lũ, cuốn trôi các thiện căn loài hữu tình. Bộc lưu là tên khác của phiền não

1. Dục bộc lưu: thức tưởng khởi lên do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tương ưng với sắc, thanh, hương, vị, xúc tức là Ngũ dục mà ta thường gọi.

2. Hữu bộc lưu: tham, mạn, si trong cõi Sắc, cõi Vô sắc.

3. Kiến bộc lưu: tư tưởng kiến giải lầm lẫn, thiên lệch. Chẳng hạn như các tà kiến cho thế giớihữu biên hoặc vô biên, rằng thế gian là thường hoặc vô thường, đoán chừng sau khi Như Lai Niết-bàn là còn hoặc không còn, đều thuộc về loại Kiến bộc lưu.

4. Vô minh bộc lưu: phiền não tương ưng với si. Ba cõi mỗi cõi đều có năm vô minh bộc lưu, cộng chung thành 15 vô minh bộc lưu.

Theo luận Câu-xá 20, 29 hoặc như tham, sân, mạn, nghi, triền của cõi Dục là Dục bộc lưu; 28 hoặc như tham, mạn, nghi của cõi Sắc, cõi Vô sắc là Hữu bộc lưu; 36 kiến chấp trong ba cõi là Kiến bộc lưu; 15 vô minh trong ba cõiVô minh bộc lưu (TĐPH Huệ Quang, t.V, tr. 4718).

[5] Thập bát viên tịnh (còn gọi là Thập bát viên mãn): chỉ cho 18 công đức viên mãn của Tịnh độ mà chư Phật an trú trong đó (Báo thân Phật). Đó là: 1. Sắc tướng viên tịnh; 2. Hình mạo viên tịnh; 3. Lượng viên tịnh; 4. Xứ viên tịnh; 5. Nhân viên tịnh; 6. Quả viên tịnh; 7. Chủ viên tịnh; 8. Trợ viên tịnh; 9. Quyến thuộc viên tịnh; 10. Trì viên tịnh; 11. Nghiệp viên tịnh; 12. Lợi ích viên tịnh; 13. Vô bố úy viên tịnh; 14. Trụ xứ viên tịnh; 15. Lộ viên tịnh; 16. Thừa viên tịnh; 17. Môn viên tịnh; 18. Y chỉ viên tịnh (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5186).

[6] Nước tám đặc tính (Bát công đức thủy): nước có tám đặc tính thù thắng. Ở Tịnh độ của Phật có ao thù thắng, nước trong ao có tám thứ đặc tính: Trong trẻo, mát mẻ, ngon ngọt, mềm nhẹ, thấm nhuần, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn. Đồng thời, trong 7 biển bao quanh núi Tu-di cũng có nước tràn đầy đủ tám tính chất: Ngọt, lạnh, mềm, nhẹ, trong sạch, không hôi, uống không đau cổ, uống không đau bụng (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 370).

[7] Thập giải (Thập trụ): mười trụ trong quá trình tu hành của Bồ-tát, tức các giai vị từ vị 11 đến vị 22 trong 52 giai vị Bồ-tát. Đó là: 1. Sơ phát tâm trụ; 2. Trị địa trụ; 3. Tu hành trụ; 4. Sinh quý trụ; 5. Cụ túc phương tiện trụ; 6. Chánh tâm trụ; 7. Bất thoái trụ; 8. Đồng chân tru; 9. Pháp vương tử trụ; 10. Quán đảnh trụ (Xem chú thích 15 “Tam Hiền Thập Thánh”, tr. 31).

[8] Tam thọ (Tam thống): ba thứ cảm thọ khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần:

- Khổ thọ: tức lãnh thọ cảnh tướng trái ý làm cho thân tâm chịu bức bách.

- Lạc thọ: tức lãnh thọ cảnh tướng vừa ý khiến thân tâm vui mừng.

- Xả thọ (Bất khổ bất lạc thọ): tức lãnh thọ cảnh tướng trung dung, thân tâm không bị bức bách, cũng không vui sướng.

Ba thọ này có mặt ở cả sáu căn, và chung cho hữu lậu, vô lậu. Hoặc mỗi thọ tự chia làm hai thứ: Thứ nào tương ưng với năm thức gọi là Thân thọ; thứ nào tương ưng với ý thức gọi là Tâm thọ (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4220).

[9] Bi nguyện: lời thệ nguyện phát ra từ lòng đại từ bi của Phật và Bồ-tát.

[10] Chủng tánh quyết định: chủng tánh nhất định sẽ thành tựu quả vị. Tức ba tánh: Bồ-tát định tánh, Duyên giác định tánh, Thanh văn định tánh trong 5 thứ định tánh mà tất cả chúng sinh đều sẵn có quyết định thành tựu quả Phật, quả Bích-chi Phật và quả A-la-hán, nên gọi là Quyết định chủng tánh (Xem chú thích 22 “Ngũ chủng tánh”, tr. 39).

[11] Chánh cơ: căn cơ thích hợp, tiếp thu được sự giáo hóa. Tịnh Độ Chân tôngNhật Bản cho rằng phàm phu ác nhân là chánh cơ của bản nguyện tha lực, nên có các thuyết như: Ác nhân chánh cơ, Nữ nhân chánh cơ. Còn căn cơ phát tâm liền được vãng sinh là chánh cơ trong các cơ (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 928).

[12] Đăng địa: tiến lên Sơ địa. Hàng Bồ-tát Đại thừa tu tập phải trải qua 52 giai vị, là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giácDiệu giác. Trong đó, tiến lên địa đầu tiên của Thập địa gọi là Đăng địa, cần phải trải qua một Đại a-tăng-kỳ kiếp tu hành. Giai đoạn từ Sơ địa đến hết Thập địa phải trải qua hai a-tăng-kỳ kiếp tu hành (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 1465).

[13] Cõi Thập Phật: chỉ 10 loại thân Phật được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Khi luận về Quả hải, tông Hoa Nghiêm đã nêu ra Thập Phật chính là cảnh giới Thập Phật nơi tự kỷ; còn luận về Phật thân thì cho Thập Phật chính là Như Lai có đầy đủ 10 thân. Đây gọi là Thập thânThập Phật. Trong “Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương”, q. 2 của ngài Trí Nghiễm chia Thập Phật ra làm hai loại: Giải cảnh Thập Phật và Hạnh cảnh Thập Phật.

I. Giải cảnh Thập Phật: cảnh giới mà Bồ-tát thuộc Hoa Nghiêm Viên giáoNhân vị dùng Quán trí giải ngộ để chiếu soi. Cảnh giới này tuy mỗi mỗi không giống nhau, nên căn cứ vào những điểm khác nhau ấy mà chia làm 10 loại, gọi chung là Giải Cảnh Thập Phật. Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 26 (Cựu dịch) thì Thập thân là:

1. Chúng sinh thân: chúng sinh thế gian.

2. Quốc độ thân: quốc độ thế gian.

3. Nghiệp báo thân: nhân duyên cảm thọ được hai thân ở trên, tức hoặc và nghiệp.

Ba thân trên là phần nhiễm.

4. Thanh văn thân.

5. Bích-chi Phật thân.

Hai thân này chỉ cho quả thể Nhị thừa: Thanh vănDuyên giác.

6. Bồ-tát thân: bậc ở nơi nhân vị cầu quả vị Phật.

7. Như Lai thân: Phật viên mãn rốt ráo.

8. Trí thân: trí huệ năng chứng của hàng Tam thừa và Phật.

9. Pháp thân: lý pháp sở chứng của hàng Tam thừa và Phật.

Sáu thân trên là phần tịnh.

10. Hư không thân: sự không mà gồm cả lý không, chính là chỗ nương tựa của các thân trên. Từ Thanh văn thân trở xuống là thuộc về trí Chánh giác thế gian.

II. Hạnh cảnh Thập Phật: quả Phật cứu cánh mà Bồ-tát thuộc Hoa Nghiêm Viên giáo tu tập chứng ngộ. Phật quả này vượt hẳn cảnh giới mà Bồ-tát nhân vị giải ngộ chiếu soi. Hạnh cảnh Thập Phật này căn cứ vào công đức của nhất Phật thân mà chia ra. Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 43 (Cựu dịch), thì Thập Phật:

1. Chánh giác Phật (Vô trước Phật): Phật quả Giác trí viên mãn.

2. Nguyện Phật: Phật dùng nguyện lực xuất sinh tất cả công đức.

3. Nghiệp báo Phật: nghiệp là nhân vạn hạnh, báo là thân tướng hảo trang nghiêm, Phật nhờ vào phước nghiệp thù thắng mà cảm được sắc thân vi diệu, tướng hảo trang nghiêm khiến cho chúng sinh phát khởi niềm tin.

4. Trụ trì Phật: thể tịnh thức giữ gìn thiện căntùy thuận thành tựu Chánh Giác.

5. Hóa Phật (Niết-bàn Phật): Phật hóa hiện nhập diệt.

6. Pháp giới Phật: Pháp thân tròn đầy khắp pháp giới, lấy pháp giới làm Pháp thể.

7. Tâm Phật: tâm Phật lặng trong, an trụ Chân Duy thức tánh.

8. Tam-muội Phật: Phật thường ở trong định mà không đắm trước.

9. Tánh Phật: Phật dùng tánh trí bình đẳng chiếu soi bổn tánh, lại ngộ gốc của Bản giác chân tánh

10. Như ý Phật: năng hóa, sở hóa đều như ý, trùm khắp các chúng sinh (TĐBKTT).

[14] Phổ Hiền Nhân phần: Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương, q. 4 nêu ra hai loại: Tam thừa Phổ HiềnNhất thừa Phổ Hiền, mỗi loại lại có ba lớp: Nhân, Giải, Hạnh nên gọi là Lục chủng Phổ Hiền.

Trong Tam thừa Phổ Hiền thì Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền; Giải là ngộ được lý Hội Tam Quy Nhất thú hướng Nhất thừa; Hạnh là hạnh Phổ Hiền. Trong Nhất thừa Phổ Hiền thì Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền nói trong phẩm Nhập Pháp Giới; Giải là Phổ biếnThâm nhập nói trong 60 hạnh môn thuộc phẩm Phổ Hiền, là cảnh giới hỗ tương dung nhiếp bất khả tư nghị; Hạnh là chỉ 10 tâm Phổ Hiền và 10 hạnh nguyện Phổ Hiền (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3716).

[15] Tam Hiền Thập Thánh:

* Tam Hiền: ba giai vị tu hành các thiện căn để hàng phục phiền não, khiến tâm được điều hòa. Tam HiềnTiểu thừaĐại thừa khác nhau.

+ Tam Hiền thuộc Tiểu thừa: giai vị tu các thiện căn hữu lậu (tức Thuận giải thoát phần), có ba giai vị:

1. Ngũ đình tâm quán vị: giai vị dùng Ngũ đình tâm quán để ngăn dứt năm món tham, sân, si, ngã kiếntán loạn.

2. Biệt tướng niệm trụ vị: giai vị quán các tự tướng: bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã thuộc thân, thọ, tâm, pháp; đồng thời quán các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã.

3. Tổng tướng niệm trụ vị: giai vị quán chung các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã thuộc Tứ niệm trụ.

+ Tam Hiền thuộc Đại thừa: chỉ cho hàng Bồ-tát trước Thập địa, giai vị này có ba lớp Thập tâm khác nhau:

1. Thập trụ: tâm hội lý, an trụ bất động. Thập trụ gồm: Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quý trụ, Cụ túc phương tiện trụ, Chính tâm trụ, Bất thoái trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ.

2. Thập hạnh: thực hành hạnh này thì sẽ tiến tới quả. Thập hạnh gồm: Hoan hỷ hạnh, Nhiêu ích hạnh, Vô vi nghịch hạnh, Vô khuất nhiễu hạnh, Vô si loạn hạnh, Thiện hiện hạnh, Vô trước hạnh, Nan đắc hạnh, Thiện pháp hạnh, Chân thật hạnh.

3. Thập hồi hướng: hồi nhân hướng quả. Thập hồi hướng gồm: Cứu chư chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng, Bất hoại hồi hướng, Đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng, Chí nhất thiết hồi hướng, Vô tận công đức tạng hồi hướng, Nhập nhất thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng, Đẳng tùy thuận nhất thiết chúng sinh hồi hướng, Chân như tướng hồi hướng, Vô phược vô trước giải thoát hồi hướngNhập pháp giới vô lượng hồi hướng (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4107).

* Thập Thánh: Nhân Vương Bát-nhã Kinh Hiệp Sớ, q. trung cho rằng Tam Hiền tức 30 tâm trước Thập địa, Thập Thánh tức hàng Bồ-tát Thập địa. Vì hàng Bồ-tát Thập địa đều đã đoạn hoặc, chứng được chánh tính (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5309).

[16] Giai vị Kim cương (Thập hồi hướng, Thập kim cương tâm): mười tâm tu hành của Bồ-tát trước hàng Thập địa ghi trong kinh Phạm Võng, q. thượng. Tức từ 10 Trưởng dưỡng tâm nhập vào Kiên tu nhẫn có 10 Kim cương tâm hướng quả, đó là: Tín tâm, Niệm tâm, Hồi hướng tâm, Đạt tâm, Trực tâm, Bất thoái tâm, Đại thừa tâm, Vô tướng tâm, Huệ tâm và Bất Hoại tâm. Từ 10 Kim cương tâm này nhập vào Kiên thánh nhẫn. Phạm Võng Kinh Hiệp Chú, q. 2 của ngài Trí Húc đời Minh cho rằng 10 Kim cương tâm này giống với Thập tín của Viên giáo; Phạm Võng Kinh Bồ-tát Giới Bản Sớ, q. thượng cho rằng 10 Kim cương tâm chính là Thập hồi hướng (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5232).

[17] Vô ký báo: nghiệp vô ký không thiện không ác thì không chịu quả khổ, cũng không thọ nhận quả vui (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4737).

[18] Bốn hoặc của Mạt-na (Tứ căn bản phiền não): ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Duy Thức cho đó là bốn thứ phiền não căn bản tương ưng và khởi lên với thức Mạt-na. Ngã si tức vô minh, nghĩa là không hiểu biết tướng ngã và mê lầmvô ngã; Ngã kiến tức ngã chấp, nghĩa là đối với pháp phi ngã vọng chấp là ngã; Ngã mạn tức cao ngạo, nghĩa là dựa vào ngã sở chấp khiến cho tâm cao cử; Ngã ái tức ngã tham, nghĩa là đối với ngã sở chấp luôn sinh tâm tham trước (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4834).

[19] Bốn duyên: bốn duyên làm chỗ nương tựa để sinh khởi tất cả các pháp hữu vi. Gồm hai thuyết:

* Theo thuyết của Tiểu thừa:

- Nhân duyên: nguyên nhân nội tại trực tiếp sinh ra quả, chẳng hạn như từ hạt giống sinh ra mầm, hạt giống chính là nhân duyên của mầm. Đối với từ ngữ “Nhân duyên” này thì “Nhân” cũng được hiểu là “Duyên”.

- Đẳng vô gián duyên: nguyên nhân làm cho từ một Sát-na trước nhường đường và khai dẫn cho một Sát-na sau sinh khởi trong sự tương tục của tâm và tâm sở. Cũng tức là lực dụng của tâm, tâm sở làm cho một Sát-na trước ở quá khứ diệt mất thì Sát-na sau ở hiện tại sinh khởi…

- Sở duyên duyên: chỉ cho tất cả đối tượng mà tâm, tâm sở phan duyên, cũng tức là các duyên gián tiếp, trực tiếp do tất cả sự vật bên ngoài đối với nội tâm sinh ra.

- Tăng thượng duyên: tất cả các nguyên nhân điều kiện trợ giúp hoặc không làm chướng ngại cho sự phát sinh của hiện tượng ngoài ba duyên nói trên.

* Theo thuyết của Đại thừa:

- Nhân duyên: tất cả pháp có khả năng tự thân sinh ra tự quả trong các pháp hữu vi. Như hạt giống lúa mì thì mọc cây lúa mì, hạt giống lúa thì mọc cây lúa. Nhân duyên này có ba thể tánh.

a. Chủng tử: tất cả pháp thiện, nhiễm, vô ký hàm chứa trong thức A-lại-da, chủng tử này vào những thời gian khác nhau có thể sinh ra chủng tử của tự loại (chủng sinh chủng), đồng thời có thể sinh khởi hiện hành của tự loại (chủng sinh hiện).

b. Hiện hành: chỉ sự hiện hành của bảy thức chuyển thức (Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thứcMạt-na thức), có công năng huân tập thành tự loại chủng tử (hiện huân chủng) trong Bản thức (thức thứ 8).

- Đẳng vô gián duyên: sự sinh khởi của tâm, tâm sở là do niệm trước dẫn sinh ra niệm sau, niệm niệm nối nhau, không có xen hở.

- Sở duyên duyên: khi đối tượng của tâm, tâm sở trở thành nguyên nhân và làm cho tâm, tâm sở sinh ra kết quả thì đối tượng của tâm, tâm sở được gọi là sở duyên duyên.

- Tăng thượng duyên: cũng giống như chủ trương của Tiểu thừa, chỉ cho các nguyên nhân điều kiện làm sinh khởi tất cả pháp ngoài ba duyên nói trên. Nhưng phạm vi của duyên này rất rộng lớn. Tăng thượng duyên lại có hai loại: Thuận tăng thượng duyên và Nghịch tăng thượng duyên (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4761).

[20] Dị sinh: Trung Quốc dịch nghĩa là Ngu dị sinh - một tên khác của hàng phàm phu. Do vô minh, tà kiến gây tạo nghiệp ácphàm phu phải luân hồi trong sáu đường, chịu các quả báo khác nhau. Theo Thành Duy Thức Luận Thuật Ký 2, phần đầu, Dị sinhhai nghĩa:

1. Biệt dị: bậc Thánh chỉ sinh trong cõi người, cõi trời, còn Dị sinh thì sinh khắp cả năm đường.

2. Biến dị: dị sinh biến chuyển sinh ra tà kiến v.v… Sinh là sinh loại, khác loại với bậc Thánh gọi là Dị sin (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 1066).

[21] Thú nhập: bài tụng 22, q. 37, kinh Du-già ghi: “Thú nhập nghĩa là đạt được sức tăng thượng tịnh tín; hoặc tại gia xa lìa hạnh ác, thọ trì học xứ; hoặc xuất gia xa lìa các dục, thọ trì học xứ” (TĐĐPB).

[22] Ngũ chủng tánh: năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh do chủng tử trong thức A-lại-da quyết định, không có cách gì thay đổi được. Đây là chủ trương của tông Pháp tướng. Năm tánh là:

1. Thanh văn thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng A-la-hán.

2. Độc giác thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Bích-chi Phật.

3. Như Lai thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Phật.

4. Bất định chủng tánh: người có chủng tử vô lậu, nhưng vẫn chưa quyết định là thuộc căn cơ nào trong Tam thừa. Bất định chủng tánh có bốn:

a) Nhị tánh bất định của Bồ-tát, Thanh văn: người có hai chủng tử quả Phật và quả A-la-hán.

b) Nhị tánh bất định của Duyên giác, Bồ-tát: người có hai chủng tử quả Phật và quả Bích-chi Phật.

c) Nhị tánh bất định Thanh vănĐộc giác: người có hai chủng tử quả quả A-la-hán và quả Bích-chi Phật.

d) Tam tánh bất định của Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát: người có ba chủng tử quả quả A-la-hán và quả Bích-chi Phật và quả Phật. 

5. Vô tánh: mặc dù không có chủng tử vô lậu của ba thừa, nhưng có chủng tử hữu lậuthể đạt được quả trời, người.

Trong năm tánh thì ba tánh Thanh văn định tánh, Duyên giác định tánh, và Vô tánh đều không có chủng tử Phật, rốt ráo không thành Phật nên gọi là Tam vô. Còn Bồ-tát định tánh và người chứng quả Phật trong Bất định tánh là có chủng tử Phậtquyết định thành Phật, nên gọi là Nhị hữu (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2941).

[23] Ngũ nghịch (Ngũ nghịch tội): năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết Tiểu thừa, năm tội nghịch: Giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng. Hai tội trước là phá Ân điền, ba tội sau là hủy Đức điền. Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián. Tội phá hòa hợp tăng chia làm hai:

1. Phá Yết-ma Tăng: tách rời giáo đoàn mà mình đã sống, thành lập giáo đoàn mới tổ chức các việc Bố-tát, Yết-ma riêng biệt.

2. Phá Pháp luân Tăng: tôn thờ thầy khác, lập thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.

Theo kinh Đại Tát-giá Ni-kiền-tử Sở Thuyết, q. 4, thì năm tội trọng:

1. Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, cướp đoạt tài vật của Tam Bảo hoặc sai bảo người khác làm việc này.

2. Hủy báng Thanh văn, Duyên giác cho đến giáo pháp Đại thừa.

3. Ngăn cản người xuất gia tu hành hoặc giết hại người xuất gia.

4. Phạm một trong năm tội Ngũ nghịch của Tiểu thừa.

5. Chủ trương tất cả đều không có nghiệp báo, thực hành mười nghiệp ác hoặc không sợ quả báo đời sausai bảo người khác làm mười điều ác.

Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, q. 5, ngài Huệ Chiếu hợp tội giết cha và giết mẹ trong năm tội nghịch của Tiểu thừa thành một, đồng thời thêm vào tội phỉ báng Phật pháplập thành năm tội nghịch cho cả Tam thừa (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2983).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10209)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11260)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13607)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13751)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22246)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21886)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27418)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17818)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11750)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12337)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25261)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23309)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28623)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22799)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14021)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13452)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22522)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26423)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18504)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18984)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27413)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28457)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21425)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14926)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19234)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10635)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18592)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15679)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13203)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13436)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14045)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11811)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11645)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11356)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11916)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19958)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12411)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13958)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13282)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32017)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13452)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12768)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13345)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11910)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21900)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11111)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12917)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant