Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Chỉ Thẳng Tâm Người

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6950)
1. Chỉ Thẳng Tâm Người

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG BỐN: THUẬT TÁC ÐỘNG THẲNG

I. CHỈ THẲNG TÂM NGƯỜI

Trong nhà Thiền có một bài kệ nổi tiếng, được xem như kim chỉ nam để giáo huấn môn đệ, tương truyền là của Tổ Bồ-đề Đạt-Ma:

 Bất lập văn tự

 Giáo ngoại biệt truyền

 Trực chỉ nhân tâm

 Kiến tánh thành Phật.

 Dịch:

 Không lập văn chữ

 Ngoài giáo riêng truyền

 Chỉ thẳng tâm người

 Thấy tánh thành Phật. 

Hai câu đầu trong bài kệ đã gây nhiều ngộ nhận nơi các nhà học Phật. Có người còn chỉ trích Thiền tông là quái thai của Phật giáo, vì cho rằng nhà Thiền chủ trương bài bác kinh điển. Lời chỉ trích này có đúng không? Đức Phật từng bảo: “Lời ta nói như ngón tay chỉ mặt trăng; đừng lầm ngón tay với mặt trăng”. Những điều Phật dạy ghi trong Kinh giáophương tiện để chúng ta nương đó mà thấy được chân lý, chứ văn tự ngữ ngôn không phải là chân lý đích thực. Con người thường bị vướng mắc trên chữ nghĩa nên không hiểu những ẩn ý ngoài lời, cũng như mãi chấp vào ngón tay nên không bao giờ nhìn thấy mặt trăng trên cao. Nhà Thiền không lập văn tự cốt để sử dụng văn tự đúng với vai tròtính chất của nó, chứ không phải chủ trương dẹp bỏ Kinh giáo. Tổ Đạt-Ma khi truyền y bát cho Tổ Huệ Khả, đâu không dạy phải dùng bốn quyển kinh Lăng-Già làm chỗ ấn tâm? Lục Tổ Huệ Năng chẳng phải trực nhận tự tánh thanh tịnh nhờ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim-Cang? Và những ngữ lục của các vị Tổ sư Thiền, có phải đến giờ vẫn còn rất nhiều so với các tông phái khác?

Như vậy, để khai thị cho môn đệ và cho những người hữu duyên đến tham vấn, các vị Thiền sư đã sử dụng phương pháp giáo dục nào?

Các Ngài có cách chỉ tâm người một cách mạnh mẽ, chớp nhoáng và trực tiếp; cách chỉ không tìm thấy ở bất cứ quyển kinh nào, vì thế gọi là chỉ thẳng tâm người và truyền riêng ngoài giáo lý. Thuật tác động thẳng này là phương pháp sinh động và đầy sáng tạo của những Thiền sư đã chứng ngộ, bắt môn đệ phải tiếp cận ngay thực tế sinh động để trực nhận chân lý. Quả thật nó rất kỳ đặc và khó hiểu đối với người công phu yếu kém, nhưng vô cùng lợi ích cho người có căn cơ bén nhạy. 

Vì sao các Ngài thích dùng thuật tác động thẳng để khai tâm? - Thật ra, người thầy có thể sử dụng nhiều phương cách đối với học trò: hoặc dựa vào sách vở, hoặc dùng ngay kinh nghiệm bản thân. Thầy cũng có thể đưa trò đến tận nơi, trực tiếp cho thấy, cho nghe, cho tiếp xúc với chính đối tượng cần nghiên cứu, để tự người học trò nhận định và thấu suốt vấn đề. Lối dạy và học bằng trực quan sinh động tỏ ra có nhiều kết quả tốt, nên đã được xem là phương pháp giáo dục chủ yếu ngay từ các lớp Trung học Phổ thông.

Một ví dụ về người chưa từng ra khỏi xóm làng của mình. Khi nghe kể về đất nước và con người Ấn Độ, người ấy cũng chỉ có một khái niệm mơ hồ. Hình ảnh Ấn Độ trong tưởng tượng của người ấy đôi khi khác xa, thậm chí trái ngược với thực tế. Đối với một đất nước cụ thể như thế mà còn khó cảm nhận, huống chi với những gì trừu tượng vô hình, thì càng khó diễn đạt và thấu hiểu đến đâu? Đặc biệt hơn cả, đó là bản tánh thường hằng của mọi loài chúng sanh, vốn là cái “vô nhất vật” không thấy được bằng mắt thường, không thể trình bày bằng ngôn ngữ, không thể hiểu bằng ý thức phân tích tư duy, thì ngay cả Bậc Thầy của Trời người, suốt 49 năm thuyết giảng cũng chưa nói được lời nào dính dáng. Như vậy, với tâm lão bà tha thiết, Đức Phật và chư vị Tổ sư phải làm thế nào để môn đệ mình nhận ra gia tài vô giá sẵn có? 

Kinh A-hàm có đoạn kể, một hôm Đức Phật đưa nắm lá vàng trong tay ra và hỏi chư Tỳ-kheo: “Lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng nhiều?”.  Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Lá trong rừng nhiều vô số, còn lá trong tay Thế Tôn thì chẳng bao nhiêu”.  Đức Phật bảo: “Những điều ta nói với các ông chỉ như nắm lá trong bàn tay, còn những gì ta biết như lá trong rừng”. Vì sao Đức Phật từ bi lại giấu giếm chúng ta nhiều điều như thế? Cho đến các vị Tổ sư sau này, khi được hỏi về đại ý Phật pháp, cũng chỉ trả lời bằng tiếng hét, bằng gậy đánh hoặc bằng những câu vô nghĩa. Như vậy, các Ngài có thật tâm giáo hóa môn đệ đến giác ngộ giải thoát? - Những cách chỉ dạy này mới nghe qua tưởng như đùa chơi, nhưng thật sự các Ngài đã phơi bày tận xương tủy. Con người thường thích suy luận phân tích đối với mọi sự vật hiện tượng, nên chỉ có khái niệm mơ hồ chung quanh vấn đề, chứ hiếm khi hiểu thấu đáo về bản chất của chúng. Đã vậy, họ lại thỏa mãn với vốn hiểu biết nôâng cạn ấy, chấp chặt đó là đúng đắn, là chân lý, nên không thể thẩm thấu sự thật tuyệt đối. Mà sự thật tuyệt đốicảnh giới tâm chứng, không có văn tự ngữ ngôn nào diễn tả một cách thấu thể, càng nói càng xa, càng tưởng tượng càng sai. Các Ngài biết rằng thế trí biện thông đôi khi là chướng ngại cho sự phát sinh trực giác, nên bằng một thủ thuật mạnh bạo, chỉ một đường gươm là chặt đứt ngang dòng tư tưởng lan man dằng dặc của ý thức. Bặt hết đường suy nghĩ, tâm trở nên rỗng không, mới có cơ hội tiếp thu chân lý Thiền! 

Một ví dụ khác, có người muốn tìm kho báu tổ tiên, nhưng không biết đường đi nên phải nhờ người hướng dẫn. Nếu người hướng dẫn có bản đồ kho báu, vị ấy sẽ chỉ cho anh ta từng chặng đường theo bản đồ, để anh ta lần hồi đi đến đích. Nhưng nếu vị ấy đã từng đến đó, đã mở cửa kho báu và đã tận mắt thấy vàng bạc châu ngọc đầy dẫy, vị ấy sẽ làm thếâ nào? Nhất là đối với kẻ đã đứng trước cửa kho tàng mà còn ngơ ngác không thấy lối vào, người hướng dẫn có cần dùng bản đồ hay dùng nhiều lời chỉ dẫn quanh co nữa không? - Vị ấy chỉ cần đẩy mạnh anh ta đến thẳng nơi vàng bạc châu báu, tự anh ta sẽ nhận ra. Các vị Thiện tri thức thuộc phái Thiền Đốn ngộ cũng làm như thế. Các Ngài đã nhận ra và đã sống bằng thể tánh bất sanh, nên khi gặp người nào có thể lãnh hội, các Ngài liền dùng thủ thuật chỉ thẳng bản tâm. Đây là lối dạy để cho người THẤY chứ không phải để HIỂU, nghĩa là giúp người nhận chân sự thật bằng trực giác chứ không qua ý thức phân biệt nhị nguyên. Lối dạy này không dựa vào văn tự kinh điển, không theo phương pháp giáo dục từ chương, nên không lập trên chữ nghĩa và ngoài giáo riêng truyền. Có thể nói, đây là những phương tiện quyền xảo của những Thiền sư đã thấy Đạo, nên rất linh hoạt, muôn màu muôn vẻ, thay đổi tùy trường hợp, và chỉ thích ứng với đương cơ. Điều này giải thích tại sao trong đại chúng đông đảo mà thường chỉ có một người khế hội.

Trong các kinh điển Đại thừa, dù Đức Phật giảng dạy dưới nhiều hình thức, khi rõ ràng khi ẩn dụ, lúc chỉ thẳng lúc dùng những hình ảnh huyền diệu khó tin, nhưng tựu trung có một điểm nhất quán: Khởi đầu, Đức Phật thường chỉ thẳng cho những bậc thượng trí trực nhận tánh giác bản lai; sau đó, Ngài mới vì hàng trung - hạ căn mà diễn bày cách tu hành tiệm thứ. Như trong kinh Lăng Nghiêm, mở đầu Phật dạy về Chân tâm thường trụ, kế đến mới nói về chánh nhân và trợ nhân tu hành. Kinh Viên Giác, hai chương Văn ThùPhổ Hiền dành cho hàng căn cơ bậc thượng, những chương sau mới dạy về thứ lớp tu tập. Như vậy, bản ý của Ngài là luôn muốn người nghe lãnh hội ý nghĩa uyên áo của Đạo bằng lối đi trực tiếp từ tâm qua tâm. Đây là cách truyền đạt theo đường tâm pháp nội tu hay ngoại giáo tâm truyền, khiến đương cơ có thể thẩm thấu chân lý một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Nhưng rất tiếc là ít người có đủ phước duyên lãnh hội, nên Ngài phải đưa ra những pháp tu theo thứ lớp, gọi là nội giáo công truyền, để mọi người đều tìm được pháp tu thích hợp cho mình. Về sau, các vị Thiền sư cũng tùy căn cơ trình độ của môn đệ mà dùng nhiều cách khai tâm khác nhau. Đọc Thiền sử, chúng ta thấy lạ lùng vì lối dạy của Tổ Hoàng-Bá: Đối với Ngài Lâm-Tế, Tổ chỉ dùng gậy đánh khi được hỏi về đại ý Phật pháp; nhưng khi Tướng quốc Bùi Hưu hỏi “Thế nào là Phật ?”, Tổ lại giảng rõ ràng: “Tức tâm là Phật, vô tâm là Đạo”. Đó là vì người mà chỉ dạy tận tình, không chút gì giấu giếm. Tướng quốc là cư sĩ, bận trăm công ngàn việc, đâu có thì giờ ôm ấp trăn trở về một vấn đề, cũng không thể đi tham vấn nhiều nơi, nên Tổ phải dùng nhiều lời để trình bày về điều không thể trình bày. Còn đối với Ngài Lâm Tế, Tổ biết là một bậc pháp khí, nên bắt Ngài ngày đêm không yên với mối  nghi ngày càng lớn “Vì sao hỏi một câu chí lý như vậy mà bị đánh? Hỏi câu ấy có lỗi hay không lỗi?”. Nhờ Ngài Đại Ngu điểm nhẹ một cái, khối nghi bùng vỡ, thế là đại ngộ, và dòng Thiền Lâm Tế vẫn còn luân lưu tươi nhuận mãi đến ngày nay.

Trong hành trạng của các Thiền sư, đôi lúc chúng ta thấy việc đại ngộ của các Ngài sao quá đễ dàng, chỉ cần vị Thầy nói một câu hay làm một động tác là trò lãnh hội yếu chỉ. Thật ra, vị ấy đã bao năm ôm mối nghi, bao lần quảy gói đi hành khước, chúng ta làm sao biết được? Chỉ ở thời điểm cuối cùng, đủ duyên gặp thiện tri thức, thì như trái cây đã chín, chỉ một làn gió nhẹ cũng làm rơi rụng, nhờ Thầy dùng thủ thuật thích hợp, vị ấy chợt nhận ra bản tâm hằng hữu xưa nay. Thủ thuật ấy chỉ đặc biệt phù hợp với đương cơ, chỉ ích lợi cho riêng đương cơ mà thôi, chứ không phải áp dụng được cho tất cả mọi người.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14891)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17830)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18242)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15013)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13207)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21191)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32614)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15332)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12362)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12847)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27561)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12153)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34990)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17767)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11843)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12660)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14576)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32492)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19469)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12983)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14103)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14277)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15332)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14155)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14149)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53226)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11681)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13936)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13830)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20724)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14322)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13438)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13643)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34231)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16237)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14077)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14223)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13574)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15947)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13531)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 23012)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27762)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13913)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 25017)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13960)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31361)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13877)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15572)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14990)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant