BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần II:
Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng
tác giả:
Thu
Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo
Cành lá bồ đề
Buổi
sáng, thầy đi thể dục vòng quanh sân chùa với thầy Minh
Thanh. Bao nhiêu năm rồi vẫn vậy. Cứ năm giờ sáng là
thầy Minh Thanh từ trên lầu xuống, dừng chân trước cửa
sổ phòng thầy. Nếu không nhìn thấy thầy ngồi ở bàn viết
thì cất tiếng gọi: Thầy Thanh ơi! Hoặc có khi cũng không
cần gọi, cứ đứng đó vài giây là thầy cảm thấy có bạn
đến chờ, ra ngay. Chỉ cần thoáng thấy bóng nhau là đủ,
đôi khi đi bên cạnh suốt buổi mà hai người chẳng cần
nói điều gì, lặng lẽ đi bên nhau thế thôi, vậy mà rất
hiểu ý. Có những tình bạn thân thiết như anh em ruột thịt,
điều gì ta cũng có thể nói cho bạn nghe, chia sẻ đến từng
ý nghĩ, quan niệm.
Ý
thích giống nhau như anh em song sinh. Nhưng cũng có những tình
bạn âm thầm không cần ngôn ngữ, tính tình có thể trái
ngược nhau mà vẫn khớp tâm hồn vào nhau được. Những tình
bạn không có khoảng cách khi gần thì rất gần nhưng khi xa
thì cũng dễ bứt. Nhưng những tình bạn vô ngôn thì sẽ bền
mãi với thời gian. Con người lạ vậy! Có lẽ bên ngoài cái
lõi của chữ duyên còn bàng bạc lãng đãng bao quanh là một
màng sương của chữ tưởng. Không có cái vùng từ trường
này chắc mọi thứ đều giản đơn tẻ nhạt và chân lý không
có hào quang, không tỏa sáng!
Xong
giờ thể dục với thầy Minh Thanh, thầy lại lên uống trà
với thầy Nhật Huệ để nghe đài và trao đổi bâng quơ vài
câu về chuyện tình hình đây đó. Thầy Minh Thanh là người
thích chuyên tu, ít quan tâm đến chuyện thời sự. Lạ vậy,
thầy vừa có thể hăng say bàn đủ chuyện với thầy Nhật
Huệ và cũng có thể lặng im ngồi uống trà chiêm nghiệm
với thầy Minh Thanh. Thầy như nước, có thể hòa vào tất
cả. Thầy như gió, có thể làm dịu mát tất cả. Thầy như
đất có thể nuôi sống, dung hòa tất cả. Và ngọn lửa trong
tim thầy dẫu không bùng sáng chói lóa, nhưng âm ỉ, bền bĩ
ngày đêm, lặng lẽ giữ gìn ngọn đèn chánh pháp. Trong thầy
có biết bao là hoài bão, ước mơ cho sự nghiệp Phật giáo.
Có lần thầy gợi ý với thầy Chơn An:
- Tôi
bây giờ còn khỏe, cố gắng đem hết sức mình phục vụ
cho công tác phật sự của giáo hội, sau này lớn tuổi rồi,
đủ kinh nghiệm và độ chín, tôi rất mong có được thời
gian ngồi tĩnh tâm dịch kinh viết sách. Tôi thấy thầy có
khả năng về mảng này mà bỏ qua uổng lắm. Hay là mai mốt
tôi với thầy mình cùng nhau làm?
Thầy
Chơn An nói:
- Lãnh
vực ấy tôi biết có nhiều người còn giỏi hơn mình. Quan
niệm tôi hồi nào giờ là thấy việc gì mình nhắm làm không
giỏi, thôi để cho người khác làm, mình lo tu thôi. Nhưng
việc này tôi và thầy nếu thuận duyên thì cùng nhau làm,
điều đó cũng rất tốt.
Thầy
cười nói:
- Tôi
rất tâm đắc cuốn Sự nghiệp đời tôi của hòa thượng
Thiện Hoa. Hoạt động của đời người tu có thể khái quát
ra ba giai đoạn: học, làm việc và sáng tác phiên dịch kinh
tạng. Ráng làm thì giẻ rách cũng đỡ đầu móng tay, miễn
là đừng ảo tưởng quá khả năng mình. Thường thì người
giỏi lại rất cẩn trọng, kẻ dỡ lại hay liều, điếc không
sợ súng, do vậy mà rốt cuộc rồi thì sản phẩm của kẻ
liều lại nhiều hơn tác phẩm của người giỏi, báo hại
làm hư rất nhiều người là vậy. Mình biết mình có khả
năng tới đâu thì làm tới đó, tát được gàu nước nào
thì tát, trăm tay mới cạn biển. Tận nhân lực mới tri thiên
mạng chớ...
Thầy
nói đến đây bỗng dừng lại, trầm ngâm:
- Nhưng
mà có khi tận nhân lực là tiêu thân mạng luôn hổng chừng...
Hai
huynh đệ nhìn nhau cười xòa, thấm ý!
Thầy
chợt nhớ đến thầy Trí Hải. Một thoáng buồn nhè nhẹ
mà len sâu nhói buốt tận trái tim thầy. Thầy Trí Hải là
người huynh đệ thân thiết nhất. Thầy đã đi trước
một bước, sớm từ bỏ cõi ta bà này để lại thầy với
bao nhớ tiếc! Ngày thầy Trí Hải mất, thầy như mất đi
một người thân ruột thịt. Ðã từng sống bên nhau qua những
ngày sóng gió, tất cả vui buồn trăn trở cùng chia sẻ. Ðối
với thầy, tình huynh đệ thâm sâu như biển. Việc đời việc
đạo, không ai hiểu và có thể chia sẻ với ta trọn vẹn
như huynh đệ đồng môn. Huynh đệ đồng môn cũng như những
chiếc lá trên cành một cây bồ đề vậy. Cùng chịu chung
nắng mưa sương gió, cùng sống bằng nguồn Pháp gốc rễ
thiền môn. Mỗi lần có người vấp ngã, lòng thầy đau như
chính mình bị thương vậy. Ở tuổi này, bắt đầu chứng
kiến những cuộc ra đi từ giã cõi ta bà của huynh đệ, mỗi
lần như vậy, thầy thấy tim mình cứ yếu dần đi, dẫu quán
lẽ vô thường nhưng tình cảm yếu mềm của con người khó
cưỡng. Mỗi lần tống tiễn kim quan một bạn tu, thầy về
thắp nén nhang trên bàn thờ Phật, dạ cứ ngùi ngùi, phải
mấy ngày sau mới bình tâm được. Lòng thầy là như thế,
bao la mà ấm áp biết bao!
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.