Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 21 – Đạo sư, Truyền thốngTự do

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9298)
Đối thoại 21 – Đạo sư, Truyền thống và Tự do

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

RISHI VALLEY 1971

Đối thoại 21:

ĐẠO SƯ, TRUYỀN THỐNGTỰ DO

Rishi Valley, ngày 23 tháng 1 năm 1971

K

rishnamurti: Liệu chúng ta có thể thâm nhập – không những từ quan điểm truyền thống nhưng còn cả liên quan toàn lãnh vực của truyền thống đến điều gì chúng ta đang nói, để thấy sự khác biệt, những mâu thuẫn, những tương tự và những không tương tự? Và cũng vậy, thấy liệu có bất kỳ điều gì mới mẻ trong điều gì chúng ta đang nói. Chúng ta hãy bàn luận điều này; thâm nhập nó sâu thẳm.

A: Chúng ta có lẽ bắt đầu bằng bốn purusharthas – dharma, artha, kama và moksha. Nếu chúng ta thâm nhập sự tiếp cận thuộc truyền thống đến sống, chúng ta thấy rằng truyền thống bắt đầu bằng sự kiện rằng sự tồn tại của con người có bốn khía cạnh này và mỗi khía cạnh đều sinh động, cốt lõi cho sự phát triển của hiểu rõ.

Krishnamurti: Chúng ta không nên bắt đầu bằng ý nghĩa của tất cả nó, hay sao?

A: Những người truyền thống bắt đầu bằng ý nghĩa của tất cả nó, bằng bốn khía cạnh.

Krishnamurti: Chúng ta nên thâm nhập tất cả nó có nghĩa gì – sự tồn tại của con người, đau khổ, xung đột của con người? Tất cả nó có nghĩa gì? Tất cả những người chuyên nghiệp trả lời nghi vấn này như thế nào?

SW: Trong truyền thống, chúng ta thấy hai phương hướng rõ rệt. Phương hướng chính thống mà phát triển bởi sự diễn giải bằng từ ngữ về những sự kiệntruyền thống vượt khỏi, như được tìm thấy trong Dattatreya và yoga vasishtha. Những người thấy mà đã vượt khỏi, đã nói ‘không-đạo sư’, ‘Chúng tôi đã tự khám phá nó cho chính chúng tôi’, ‘Tôi sẽ không thề nguyền bởi kinh Veda’, ‘Toàn thiên nhiên, toàn thế giớiđạo sư của tôi’, ‘Hãy quan sáthiểu rõ thế giới’. Trong Phật giáo cũng vậy, có một vượt khỏi. Lời dạy của ngài tượng trưng cho hạt nhân của khuôn mẫu vượt khỏi. Những người đã vượt khỏi hiệp thông cùng sự sống.

 Nếu anh đọc yoga vasishtha, nó nói rằng cái trí chất đầy những suy nghĩ, những xung đột; và những xung đột này phát sinh bởi ham muốnsợ hãi; nếu anh không thể giải quyết được chúng, anh không thể hiểu rõ. Nó nói về sự suy nghĩ phủ nhận. Max Mueller và vài người người khác đã diễn giải sai lầm từ ngữ nirodha. Từ ngữ này không có nghĩa kiềm chế, nó có nghĩa phủ nhận.

 Nhiều điều được nói về những đạo sư. Yoga vasishtha nói rằng đưa ra những chặng khai trí và những hành động như thế là vô nghĩa.

 Sự thức dậy của người học trò ở trong sự hiểu rõ đúng đắn và trong sự nhận biết đúng đắn. Điều đó, một mình nó, là sự kiện trách nhiệm cơ bản nhất. Những cốt lõi này là hạt nhân của truyền thống vượt khỏi.

R:tuy nhiên có nhiều đoạn văn trong yoga vasishtha nơi nó nói nếu không có một đạo sư, bạn không thể tìm được bất kỳ thứ gì.

A: Vượt khỏi cái gì? Nếu nó là một vượt khỏi hệ thống xã hội, truyền thống vượt khỏi đó cũng tiếp tục hệ thống xã hội.

SW: Đối với vấn đề của hiểu rõ, truyền thống cho một tiếp cận chính thức bằng từ ngữ. Trong truyền thống vượt khỏi đó, đây không là như thế. Vượt khỏi không từ xã hội. Cả hai truyền thống này đều tồn tại. Trong mathas hay những tu viện, họ đã nói về kinh Veda, nhưng điều gì họ nói không liên quan gì đến sống; có những người khác mà liên kết tất cả mọi điều họ hiểu rõ đến sống. Nhưng bất kỳ điều gì đã được nói ra không liên quan gì đến xã hội.

R: Làm thế nào mà truyền thống đạo sư đã trở thành quan trọng như thế?

Krishnamurti: Chúng ta sẽ bàn luận nghi vấn về đạo sư này? Chúng ta sẽ bắt đầu với điều đó được chứ? Từ ngữ guru có nghĩa gì?

SW: ‘Desika’ là từ ngữ đúng đắn, không phải guru. Desika có nghĩa một người mà giúp đỡ đánh thức người học trò; người mà giúp đỡ người tìm kiếm hiểu rõ. Từ ngữ đó có nghĩa người mà học hành.

R: Người học trò được gọi là shishya. Shishya là người có khả năng học hành.

SW: Guru có nghĩa mênh mang, vượt khỏi, vĩ đại.

Krishnamurti: Guru là người vĩ đại, vượt khỏi, người mà sâu sắc, vậy thì anh ấy có sự liên hệ gì với một người học trò?

SW: Trong Upanishads, nó là một của tình yêu và từ bi. Kinh Upanishads khẳng định rằng từ bi là sự hiệp thông giữa guru và người học trò.

Krishnamurti: Bây giờ, làm thế nào truyền thống đã trở thành uy quyền? Làm thế nào một ý thức của học hành, của tuân theo, của chấp nhận bất kỳ điều gì guru nói, làm thế nào điều đó đã được đưa vào sự liên hệ? Uy quyền, sự liên hệ ép buộc, hủy hoại – ngăn cản sự suy nghĩ đúng đắn, nó hủy diệt sự sáng tạo. Làm thế nào sự liên hệ này đã hiện diện?

SW: Giải thích điều này khó khăn lắm. Chắc chắn hai cách tiếp cận đã tồn tại trong thời gian dài. Trong một truyền thống, đạo sư được tiếp nhận như một người bạn, như một người mà người học trò thương yêu; trong đó người đạo sư không là uy quyền gì cả. Truyền thống khác trục lợi. Nó muốn uy quyền, những người theo sau.

A: Điểm chính của Swamiji là rằng đã không có một dòng chảy đồng nhất. Có người đứng ngoài và người tuân theo. Một người không-tuân theo là một người đã từ bỏ xã hội; anh ấy đứng ngoài xã hội.

R: Chúng ta quay lại câu hỏi đầu tiên của anh – nó nói về điều gì, ngoại trừ câu hỏi về những đạo sư, đáp án cơ bản cho sống là gì?

Krishnamurti: Tôi không biết liệu chúng ta có thể tìm được. Liệu bạn có thể khoét sâu vào nó? Liệu bạn có thể khoét sâu vào mọi thứ từ tôi? Bạn hiểu rõ điều gì tôi có ý? Bạn đến một cái giếng và bạn có được nước tùy theo kích cỡ cái xô của bạn; dù bạn mang cái thùng chứa to đến cỡ nào, bạn đều có thể nhận được dư thừa nước. Bạn đã đọc nhiều về văn chương cổ xưa, bạn đã luyện tập, bạn đã đọc điều gì chúng ta đã nói. Bạn đã được trang bị quá đầy đủ quan điểm thuộc truyền thống, và bạn cũng biết điều gì đang xảy ra trong thế giới. Lúc này, bạn và tôi gặp gỡ nhau. Hãy vét cạn nơi tôi càng nhiều bao nhiêu càng tốt. Hãy chất vấn tôi mọi thứ, từ khởi đầu đến kết thúc. Chất vấn thật thăm thẳm như người tuân theo và như người không-tuân theo, như một đạo sư, như một không-đạo sư, như một học trò và như một không-học trò.

 Giống như khi đang khát khô cuống họng, đến một giếng nước, đang muốn tìm ra mọi thứ. Hãy thực hiện nó theo cách đó, thưa bạn. Vậy thì, tôi nghĩ việc đó sẽ gây lợi lộc.

SW: Vậy là, tôi có thể tuyệt đối được tự do?

Krishnamurti: Đập vỡ tất cả những cửa sổ, bởi vì tôi cảm thấy thông minh là vô hạn. Nó không có những giới hạn, và bởi vì nó không có những biên giới, nó hoàn toàn không cá nhân. Vì vậy bằng tất cả trải nghiệm, hiểu biếthiểu rõ của bạn về truyền thống và khuôn mẫu vượt khỏi mà cũng trở thành truyền thống, bằng điều gì bạn biết và bằng điều gì bạn đã hiểu rõ, từ những thiền định riêng của bạn, từ sống riêng của bạn, bạn đến với tôi. Đừng thỏa mãn chỉ bởi một vài từ ngữ. Hãy khoét sâu.

SW: Tôi muốn biết làm thế nào anh đến được nó?

Krishnamurti: Bạn muốn biết làm thế nào con người này đã bắt gặp nó? Tôi không thể nói cho bạn. Bạn thấy, thưa bạn, chắc chắn anh ta không bao giờ trải qua bất kỳ luyện tập, kỷ luật, ghen tuông, đố kị, tham vọng, thèm khát quyền hành, vị trí, thanh danh, nổi tiếng. Anh ta không làm bất kỳ việc nào của chúng. Vì vậy không bao giờ có bất kỳ nghi vấn nào của sự từ bỏ. Vì vậy khi tôi nói tôi thực sự không biết, tôi nghĩ rằng điều đó sẽ là sự thật. Hầu hết những người thầy truyền thống đều trải qua, từ bỏ, luyện tập, hiến dâng, kiểm soát; họ ngồi dưới cái cây và bắt gặp sự rõ ràng.

SW: Vậy thì, một sự việc khác mà tôi muốn hỏi là, trong những lời giảng của anh, nhạy cảm, hiểu rõ, nhận biết thụ động, là những nhân tố mà phải ấp ủ trong sống của người ta. Làm thế nào anh đã bắt gặp được cái này?

A: Anh có lẽ đã không có gì phải từ bỏvì vậy không có học hành, không có phương tiện, nhưng còn những người mà có cái gì đó phải từ bỏ thì sao?

Krishnamurti: Bạn đang hỏi làm thế nào tôi đã bắt gặp cái này? Tôi thực sự không thể nói cho bạn. Tại sao bạn quan tâm đến nó? Làm thế nào tôi bắt gặp cái này quan trọng ra sao?

SW: Nó là tò mò, nó là hân hoan.

Krishnamurti: Chúng ta hãy vượt khỏi điều đó.

SW: Khoảnh khắc anh nói nhận biết, chú ý, nhạy cảm, người ta đầy kinh ngạc, cảm kích. Làm thế nào anh đến được cái này? Làm thế nào người đàn ông này có thể nói chuyện như thế này? Và khi chúng tôi phân tích điều gì anh nói, nó quá khoa học, chính đáng, và đầy ý nghĩa.

Krishnamurti: Bạn biết câu chuyện một cậu bé được phát hiện như thế nào; cậu ta đã được sinh ra trong một gia đình Brahmin cổ truyền nhất; cậu ta đã không bị quy định bởi truyền thống và cũng đã không bị quy định bởi bất kỳ nhân tố nào khác trong khi sống – như một người Ấn giáo, như một người huyền bí học. Tất cả nó đều không tác động đến cậu ta. Trước hết tôi không biết tại sao nó đã không tác động đến cậu ta.

A: Câu hỏi mà anh đặt ra này được diễn đạt trong một cách khác. Làm thế nào một người được bao bọc trong một môi trường tập trung mãnh liệt vào cuộc sống hiện tượng đã không bị trói buộc trong cách sống đó?

SW: K đã bắt gặp nó. Anh ấy không thể giải thích nhưng anh ấy nói chuyện và anh ấy sử dụng những thuật ngữ nào đó và toàn sự chính đáng của nó hiện diện ở đó; và quả thật là một kinh ngạc lạ thường cho người nghe khi không có bất kỳ cái gì trợ giúp mà làm thế nào anh ấy đã bắt gặp nó và tuy nhiên lại vẫn có sự chính đáng.

Krishnamurti: Làm thế nào một người như K, không đọc bất kỳ quyển sách thiêng liêng nào, những quyển kinh thánh của phương đông hay phương tây, làm thế nào không trải nghiệm, không từ bỏ, không hiến dâng, không trải qua tất cả việc này, làm thế nào anh ta nói được những điều này? Tôi thật sự không thể giải thích, thưa bạn.

A: Anh đã đưa ra đáp án cách đây một phút; anh đã nói thông minh không thuộc cá nhân.

Krishnamurti: Nhưng anh ta nói làm thế nào bạn nhận được sự thông minh mà không trải qua tất cả việc này?

SW: Tôi không hỏi làm thế nào anh ta bắt gặp nó nhưng trong nói chuyện của anh ta có sức thuyết phục như thế, sự chính đáng như thế, một chuỗi lý luận hoàn hảo như thế. Nó đến và người lắng nghe thấy được vẻ đẹp, hân hoan. Nó ở trong quả tim của anh ta.

Krishnamurti: Khi bạn nói nó đã đến bởi vì nó ở trong quả tim của anh ta, tôi không biết làm thế nào để diễn tả nó. Nó đến. Tôi không biết như thế nào; không phải từ quả tim hay từ cái trí, nhưng nó đến. Hay liệu bạn nói, thưa bạn, rằng nó sẽ đến với bất kỳ người nào mà mà thực sự không-ích kỷ?

SW: Hoàn hảo, vâng.

Krishnamurti: Tôi nghĩ đó sẽ là đáp án chính đáng nhất.

SW: Hay liệu có phải rằng anh đã thấy sự đau khổ của nhân loại và thế là bắt gặp nó?

Krishnamurti: Không. Để trả lời nghi vấn này thực sự đúng cách, đầy đủ, người ta phải thâm nhập toàn nghi vấn – có cậu trai đó mà đã được phát hiện ở ngoài đường; cậu ta đã trải qua tất cả mọi loại sự việc – cậu ta được công bố là Đấng Cứu thế, cậu ta đã được tôn thờ, vô số tài sản đã được hiến tặng cho cậu ta, cậu ta có quá nhiều người theo sau. Tất cả việc đó đã không tác động đến cậu ta. Cậu ta đã từ bỏ đất đai giống như cậu ta đã thâu nhận đất đai. Có cậu trai đó và cậu ta đã không bao giờ đọc triết lý, tâm lý, những quyển sách thiêng liêng và cậu ta đã không bao giờ luyện tập bất kỳ thứ gì. Và có chất lượng của nói chuyện từ trống không.

SW: Vâng, vâng.

Krishnamurti: Bạn hiểu rõ, thưa bạn, không bao giờ có bất kỳ sự tích lũy từ điều gì anh ta nói. Vì vậy khi bạn đặt ra một câu hỏi như, ‘Làm thế nào anh nói những sự việc này?’, câu hỏi đó bao hàm một nghi vấn quan trọng hơn nhiều, mà là, liệu thông minh hay bất kỳ từ ngữ nào bạn muốn gọi nó, có thể được chứa đựng trong bất kỳ ý thức đặc biệt nào hay nó vượt khỏi tất cả ý thức đặc biệt?

 Thưa bạn, hãy nhìn ngắm thung lũng này, những quả đồi, những cái cây, những tảng đá – thung lũng là tất cả những thứ đó. Nếu không có những sự vật của thung lũng, không có thung lũng. Lúc này, nếu không có nội dung trong ý thức, không có ý thức – trong ý nghĩa của những việc bị giới hạn. Khi bạn đặt ra một câu hỏi, ‘Làm thế nào anh ta nói những điều này?’ Tôi thực sự không biết. Nhưng nó có thể được trả lời, rằng khi nó xảy ra, cái trí tuyệt đối trống không. Điều này không có nghĩa rằng bạn trở thành một người trung gian.

SW: Tôi rút ra từ điều này, sự vô hạn đó là vẻ đẹp, có lý luận, chính đáng. Nó cân đối hoàn hảo trong sự diễn tả của nó.

Krishnamurti: Thưa bạn, bởi vì đã nói điều mà chúng ta đã nói vừa rồi, bạn muốn tìm ra cái gì? Bạn có khả năng, bạn đã đọc nhiều, bạn có hiểu biết, trải nghiệm, bạn đã luyện tập và đã thiền định – từ đó, hỏi.

SW: Ý thức là ngục tù. Chỉ từ trống không người ta mới có thể có lối vào nó.

Krishnamurti: Vì vậy, liệu bạn đang hỏi làm thế nào một con người có thể làm trống không cái trí?

SW: Có một ý tưởng truyền thống về adhikari, người mà có thể học hành. Và ý tưởng truyền thống là rằng có những thứ bậc hay những khác biệt trong những con người mà có thể thâu nhận hay học hành. Điều gì anh ấy có thể học hành, phụ thuộc vào sự khác biệt đó. Có ba thứ bậc. Trong những ngữ cảnh của cổ truyền, chúng được đề cập như sattva, rajas và tamas. Những người phụ thuộc vào loại thứ nhất – sattva – có thể có hiểu rõ bằng cách lắng nghe một người thầy, của hiểu rõ. Những người rajas phải lắng nghe và hồi tưởng khi họ phải đối diện một vấn đề của sống. Những người tamas không thể học hành bởi vì cái trí của họ quá tối tăm. Với mục đích làm cho cái trí tinh tế, có nhiều phương pháp, upasanas. Yoga bắt đầu bằng kiểm soát-hơi thở, thiền định, đứng bằng đầu. Thậm chí lúc đó, họ nói những phương pháp usanas chỉ là phương tiện như một lau sạch. Nó được nói, bất kỳ điều gì anh làm, hãy thụ động, hãy quan sát ‘cái gì là’.

Krishnamurti: Bạn nói, như những con người được cấu thành, có những thứ bậc, những phân hạng của sự thâu nhận. Họ không trải qua qui trình trở thành và đối với những người như thế, liệu có thể bắt gặp cái này?

SW: Đó là một phần của nó. Phần còn lại là rằng với nhiều người, có những khoảnh khắc của hiểu rõ. Nhưng chúng trôi tuột đi. Nó là một đấu tranh liên tục. Người ta phải làm gì?

Krishnamurti: Câu hỏi là gì?

SW: Một con người như thế phải làm gì?

Krishnamurti: Khi biết rằng có những thứ bậc, liệu có thể chặt đứt những thứ bậc này?

A: Đó là một vấn đề của thời gian?

SW: Liệu chúng ta có thể chặt đứt những thứ bậc này hay có những qui trình mà nhờ nó chúng ta có thể thay đổi những thứ bậc?

R: Truyền thống nói rằng một qui trình lâu dài của thời giancần thiết.

SW: Tôi không đồng ý điều đó.

R: Người ta phải có sự ganh đua để hiểu rõ.

A: Tôi nói sống của tôi là một sống của trở thành. Khi tôi đến và ngồi cùng anh, anh nói thời gian không liên quan. Tôi nói ‘vâng’ bởi vì nó rõ ràng, nhưng lại nữa tôi quay lại trong lãnh vực của thời gian, nỗ lực, vân vân, và cái này mà tôi cảm thấy tôi hiểu rõ, trôi tuột đi.

Krishnamurti: Câu hỏi khá rõ ràng. Câu hỏi là rằng khi tôi lắng nghe, dường như tôi hiểu rõ và khi tôi đi khỏi, cái này không còn nữa. Và câu hỏi khác là, làm thế nào người không sáng sủa, người không lý luận, sẽ phá vỡ được tình trạng bị quy định của anh ấy và bắt gặp nó? Đáp án của bạn đối với câu hỏi này là gì?

SW: Trả lời của tôi từ trải nghiệm, trả lời thuộc truyền thống, hãy để con người thực hiện loại thiền định nào đó mà nhờ nó cái trí được làm cho nhạy bén nhiều hơn.

Krishnamurti: Đó là, thực hiện những luyện tập nào đó, thực hiện những bài tập nào đó, hít thở, vân vân, cho đến khi cái trí có thể hiểu rõ. Và người khác nói khi tôi lắng nghe anh, tôi hiểu rõ nhưng nó trôi tuột. Có hai câu hỏi, trước hết hãy thâm nhập câu hỏi về cái trí không có khả năng; lúc này, làm thế nào nó có thể thấy? Làm thế nào một cái trí như thế có thể thấy, hiểu rõ, mà không có luyện tập, không có qui trình thời gian? Thời gian hàm ý qui trình, đúng chứ? Nếu khôngthời gian, làm thế nào một cái trí như thế bắt gặp cái này? Cái trí của tôi đần độn. Cái trí của tôi không có sự rõ ràng để hiểu rõ sự việc này ngay tức khắc. Vì vậy bạn bảo tôi luyện tập, hít thở, ăn ít lại, bạn yêu cầu tôi luyện tập tất cả những phương pháp và những hệ thống mà sẽ giúp làm cho cái trí sắc bén, nhạy cảm, rõ ràng. Tất cả điều đó bao hàm thời gian và khi bạn cho phép thời gian, có những nhân tố khác len lỏi vào cái trí. Nếu tôi phải đi từ đây đến đó, muốn bao phủ khoảng cách đó phải mất thời gian. Trong việc bao phủ khoảng cách đó có những nhân tố khác len lỏi vào trong suốt chuyến hành trình đến độ tôi không bao giờ đến được đó. Trước khi tôi đến được đó, tôi thấy cái gì đó đẹp đẽ và tôi bị cuốn trôi. Phương hướng không là một con đường giới hạn, ngay thẳng mà tôi bước đi trên nó. Vô số những nhân tố đang xảy ra. Những biến cố, những xảy ra, những ấn tượng này sẽ thay đổi chuyển động của phương hướng. Và cái đó mà tôi đang cố gắng để hiểu rõ cũng không là một điểm cố định.

A: Nên thâm nhập câu hỏi của nó không là một vật cố định.

Krishnamurti: Tôi nói cái trí của tôi bị hoang mang, bị quấy rầy, tôi không hiểu rõ.

 Bạn bảo tôi, hiểu rõ bằng cách phải làm những sự việc này. Thế là bạn đã thiết lập hiểu rõ như một vị trí cố định, và nó không là một vị trí cố định.

SW: Nó không là một vị trí cố định.

Krishnamurti: Chắc chắn, nếu nó là một vị trí cố định, và tôi đang hướng về nó, có những nhân tố khác len lỏi vào trong chuyến hành trình hướng về của tôi và những nhân tố này sẽ gây ảnh hưởng tôi nhiều hơn đích đến.

A: Đích đến đó là một chiếu rọi của cái trí không biết.

Krishnamurti: Phương cách đó không là phương cách gì cả. Đầu tiên thấy nó. Nó không là một điểm cố định, và nó không bao giờ có thể là một điểm cố định; vì vậy, tôi nói đó là một sự việc hoàn toàn giả dối. Vậy thì bởi vì nó không là phương cách, bởi vì bạn đang phủ nhận toàn sự việc, bạn đã xóa sạch một lãnh vực khác thường – tất cả những luyện tập, tất cả những thiền định, tất cả những hiểu biết. Vậy thì tôi đã được bỏ lại cùng điều gì? Tôi được bỏ lại cùng sự kiện rằng tôi bị hoang mang, rằng tôi bị dốt nát.

 Lúc này, làm thế nào tôi biết tôi bị dốt nát, làm thế nào tôi biết tôi bị hoang mang? Chỉ qua sự so sánh, bởi vì tôi thấy rằng bạn rất nhạy bén và tôi nói, qua sự so sánh, qua sự đo lường, tôi bị đần độn.

 Tôi không so sánh và tôi thấy điều gì tôi đã làm qua sự so sánh. Tôi đã tự-thâu hẹp chính mình đến một trạng thái mà tôi gọi là dốt nát qua sự so sánh, và tôi thấy đó cũng không là phương cách. Thế là, tôi phủ nhận sự so sánh. Thế là, liệu tôi bị dốt nát, nếu không có sự so sánh? Vì vậy tôi đã phủ nhận hệ thống, một qui trình, một đích đến cố định mà bạn đã khai triển như một phương tiện của khai sáng qua thời gian. Tôi nói sự so sánh không là phương cách. Sự đo lường có nghĩa khoảng cách.

SW: Liệu điều đó có nghĩa rằng, hiểu rõ này không là vấn đề liên quan chặt chẽ với khả năng? Chúng ta đã bắt đầu bằng khả năng.

Krishnamurti: Tôi nói tôi lắng nghe bạn, Swamiji, nhưng tôi không hiểu rõ. Tôi không biết nó là gì mà tôi không hiểu rõ, nhưng bạn chỉ rõ cho tôi – thời gian, qui trình, điểm cố định, vân vân. Bạn chỉ rõ nó cho tôi, và tôi phủ nhận chúng. Vì vậy điều gì đã xảy ra cho cái trí của tôi? Trong chính sự phủ nhận, khước từ, cái trí đã trở nên ít dốt nát hơn. Sự phủ nhận cái giả dối làm cho cái trí rõ ràng; và sự phủ nhận của so sánh mà cũng là giả dối, làm cho cái trí nhạy bén.

 Vì vậy, lúc này tôi đã ở lại cùng cái gì? Tôi biết tôi dốt nát chỉ trong sự so sánh với bạn. Sự dốt nát tồn tại trong sự đo lường chính tôi với cái gì được gọi là sự thông minh, và tôi nói tôi sẽ không đo lường. Vì vậy, liệu tôi còn dốt nát nữa không? Tôi đã hoàn toàn phủ nhận sự so sánh và sự so sánh có nghĩa tuân phục. Tôi đã còn lại cái gì? Cái sự việc tôi đã gọi là dốt nát không là dốt nát. Nó là ‘cái gì là’. Tôi đã còn lại cái gì tại khúc cuối của tất cả việc này? Tất cả mọi điều mà tôi đã còn lại là, tôi sẽ không còn so sánh nữa. Tôi sẽ không đo lường chính tôi với người nào khác mà cao quí hơn tôi và tôi sẽ không giẫm trên con đường này mà đã được trải phẳng cho tôi. Thế là, tôi phủ nhận tất cả những cấu trúc mà con người đã áp đặt vào tôi để đạt được sự khai sáng.

 Thế là, tôi ở đâu? Tôi bắt đầu từ ngay khởi đầu. Tôi không biết gì về sự khai sáng, hiểu rõ, qui trình, so sánh, trở thành. Tôi đã quẳng chúng đi. Tôi không-biết. Hiểu biếtphương tiện của bị tổn thươngtruyền thống là dụng cụ qua đó tôi bị tổn thương. Tôi không muốn dụng cụ đó và, vì vậy, tôi không bị tổn thương. Tôi bắt đầu bằng sự hồn nhiên hoàn toàn. Sự hồn nhiên có nghĩa một cái trí không thể bị tổn thương.

 Lúc này, tôi nói với chính mình, tại sao họ đã không thấy sự kiện đơn giản này, không có vị trí cố định. Tại sao? Tại sao họ đã chất đống tất cả điều này vào cái trí con người để cho tôi phải vật lộn qua tất cả điều này, để loại bỏ tất cả điều này?

 Nó rất thú vị, thưa bạn. Tại sao trải qua tất cả qui trình này nếu tôi phải loại bỏ nó? Tại sao bạn đã không bảo cho tôi đừng so sánh; sự thật không là một vị trí cố định? Liệu tôi nở hoa trong tốt lành qua sự so sánh? Liệu sự khiêm tốn có thể kiếm được qua thời gian, luyện tập? Chắc chắn không. Và vẫn vậy bạn đã quả quyết vào sự luyện tập, tại sao? Khi bạn quả quyết vào sự luyện tập, bạn nghĩ rằng bạn sẽ đến một vị trí cố định. Vì vậy, bạn đã tự lừa gạt chính bạn và bạn đang lừa gạt tôi.

 Bạn không nói với tôi: bạn không biết gì cả và tôi không biết gì cả, chúng ta hãy tìm ra liệu tất cả những sự việc gì mà con người đã áp đặt vào con người khác là đúng thực hay giả dối. Họ đã nói khai sáng là cái gì đó phải đạt được qua thời gian, qua kỷ luật, qua đạo sư. Chúng ta hãy tìm ra, hãy tìm ra nó.

 Tại sao những con người đã áp đặt vào những con người điều gì đó mà không là sự thật? Những con người đã tự-hành hạ chính họ, tự-trừng phạt chính họ để kiếm được sự khai sáng như thể sự khai sáng là một vị trí cố định. Và họ kết thúc bằng sự tối tăm. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao, thưa bạn, con người tạm gọi là sai lầm còn gần gũi sự thật nhiều hơn con người luyện tập để kiếm được sự thật.

Một người luyện tập sự thật trở thành không trong sáng, không minh bạch. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28199)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6694)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8792)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9322)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15391)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8259)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8687)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16738)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26988)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18688)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15661)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22546)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19484)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18363)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16214)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25653)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12892)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37868)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20098)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10721)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10043)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10563)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10397)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11047)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15244)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10849)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11713)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10787)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11252)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10112)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10572)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11559)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10896)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11410)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12166)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11070)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13024)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15248)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15723)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11006)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11050)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21857)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9183)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20185)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17262)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10105)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant