Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6929)
19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

19

Em phải gấp lên để hiểu rõ

T

háng tư năm 1983, K đi đến New York lại, lần này thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở Madison Square Garden mà chứa được một lượng khán giả thậm chí còn đông hơn cả Carnegie Hall. Hai phóng viên phỏng vấn anh cho tờ East West Journal phê bình: ‘Chúng tôi gặp một con người rụt rèlễ phép nhưng dường như có sự kiên nhẫn vô hạn, tuy nhiên cùng lúc lại bày tỏ một mãnh liệt và một ý thức của sứ mệnh . . . Sự rõ ràng và những giải thích sâu sắc của anh làm chúng tôi khựng lại nhiều lần, để lại cho chúng tôi một cảm giác rằng đây là một con người tự do thực sự mà, không cần cố gắng, đã đạt được cái gì mà tôi cảm thấy là một loại nổi loạn tinh thần – một tầm nhìn thiêng liêngđạo đức nghiêm túc, tuyệt đối độc lập khỏi những tôn giáo và những học thuyết chính thống.’

 Tiếp theo những nói chuyện ở New York, tại họp mặt Ojai, một cuộn phim màu trọn bộ về sống của K được chiếu, mà Evelyne Blau, một trong những ủy viên của American Foundation, phải mất năm năm để thực hiện. Được gọi là The Challenge of Change Sự thách thức của Thay đổi và được đạo diễn bởi Michael Mendizza, lời đọc bởi diễn viên Mỹ Richard Chamberlain, K ngồi xem hết cuộn phim, cái gì đó hiếm hoi với anh, bởi vì anh chưa bao giờ muốn xem anh trên truyền hình hay nghe những phỏng vấn phát thanh của anh cũng như đọc bất kỳ quyển sách riêng nào của anh. Rõ ràng anh thích cuộn phim này, cùng những cảnh quay đẹp về Thụy sĩ và Ấn độ của nó. Nó đã có những lần chiếu rất thành công trong nhiều thành phố khác nhau ở Mỹ.

 Ngay sau khi K và Mary đến Brockwood vào tháng sáu, Dorothy Simmons bị đau tim đột ngột. Mặc dù bà hồi phục, bà không còn có thể đảm đương toàn gánh nặng của ngôi trường như bà đã làm thật xuất sắc suốt mười bốn năm. Bà về hưu, nhưng tiếp tục sống tại Brockwood cùng người chồng của bà, mà chính ông ấy cũng về hưu sớm hơn vài năm.[1] Cuối cùng, một người Mỹ còn trẻ, Scott Forbes, kết hôn với một cô gái từ South Africa dạy múa ở trường, được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng mới. Một con người năng động trẻ tuổi đã làm việc tại Brockwood khoảng mười năm, hầu như đảm trách phần video (bây giờ đã có dụng cụ màu), Scott đi rất nhiều, đã sống một khoảng thời gian ở Paris và có một công việc kinh doanh bán đồ cổ nhỏ ở Geneva trước khi bất ngờ gặp K khi anh, do tình cờ, đến Saanen vào một mùa hè. Anh ấy đã lắng nghe một nói chuyện và bị say đắm. Trong khi làm việc cho K, anh hoàn toàn thay đổi cách sống, và vẫn còn giữ nguyên sức làm việc của anh. Người vợ của anh đảm trách phần video sau khi anh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng.

 Vẫn còn tại Gstaad, sau họp mặt Saanen 1983, K sẽ gặp một người mà giúp anh thành tựu ước nguyện được ấp ủ nhiều nhất của anh vào lúc này – thành lập một trung tâm người lớn tại Brockwood, hoàn toàn độc lập khỏi ngôi trường, nơi mọi người có thể đi đến cho mục đích duy nhấthọc hỏi lời giảng của anh. Người đàn ông tuổi trung niên này là Friedrich Grohe, một người Đức đang sống ở Thụy sĩ, bốn năm trước đã rút lui khỏi việc kinh doanh gia đình, được quốc tế biết đến về việc chế tạo phòng tắm và những vòi khóa nước nhà bếp. Sau khi đọc một trong những quyển sách của K năm 1980 (The Impossible Question Câu hỏi không thể trả lời được) đã khẳng định hướng sống của anh từ thời điểm đó trở đi, dùng những từ ngữ của anh ấy. Anh ấy đến gặp K tại Tannegg bởi vì anh ấy nóng lòng muốn bắt đầu một trường Krishnamurti ở Thụy sĩ. K can ngăn anh ấy đừng nên thực hiện việc này, nói rằng tìm những giáo viên khó khăn lắm. (Khi K hỏi anh ấy đã lập gia đình hay chưa và anh ấy trả lời không, anh ấy đã ly dị, K nắm cánh tay anh ấy và nói ‘Tốt’.)[2] Năm sau, trong một lần thăm Brockwood, Friedrich Grobe đề nghị rằng, thay vì thành lập một ngôi trường, anh ấy tài trợ cho việc xây dựng trung tâm tìm hiểu. K tiếp nhận đầy nhiệt thành đề nghị này. Một vị trí đẹp được chọn lựa, gần nhưng không nhìn thấy được từ tòa nhà của trường học, có thể nhìn thấy suốt những phong cảnh ở phía nam qua những cánh đồng trống. K giao cho Scott Forbes nhiệm vụ tìm một kiến trúc sư và xin giấy phép xây dựng.

 Mùa đông năm1983 – 84 đó, sau một chương trình đầy đủ ở Ấn độ, K quay lại Ojai vào tháng hai, khá kiệt sức, để giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc khánh thành một trường trung học tại Ojai, kế cận trường tiểu học Oak Grove. Tháng ba anh được Dr M. R. Raju của National Laboratory Research Center tại Los Alamos ở New Mexico mời tham dự một hội nghị chuyên đề về ‘Sáng tạo trong Khoa học’. Trung tâm nghiên cứu về nguyên tử ở Mỹ này đã tập hợp được một số khán giả mới gây hứng thú cho K. 8 giờ sáng ngày 19 tháng ba, anh nói chuyện trên một tiếng đồng hồ với khoảng 700 người khoa học, về đề tài hiểu biết không bao giờ có thể là sáng tạo bởi vì nó không trọn vẹn. Anh chấm dứt:

 

Chắc chắn sáng tạo có thể xảy ra chỉ khi nào tư tưởng bặt tăm . . . Khoa học là chuyển động của hiểu biết được thâu lượm nhiều hơn và nhiều hơn và nhiều hơn. ‘Nhiều hơn’ là sự đo lường, và tư tưởng có thể được đo lường bởi vì nó là một tiến hành thuộc vật chất. Hiểu biết có sự thấu hiểu riêng của nó, sự sáng tạo bị giới hạn riêng của nó, nhưng điều này tạo ra sự xung đột. Chúng ta đang nói về sự nhận biết tổng thể trong đó cái ngã, cái ‘tôi’, cái nhân cách, không len lỏi vào được. Chỉ đến lúc đó mới có cái sự việc được gọi là sáng tạo này. Đó là nó.

 

Sáng hôm sau K trả lời những câu hỏi cho một số khán giả ít hơn, được giới hạn trong những người bạn của Los Alamos National Laboratory. Trong mười lăm câu hỏi được đưa ra, anh chỉ trả lời câu đầu tiên và cuối cùng. Trả lời cho câu hỏi đầu tiên ‘Sáng tạo là gì? Thiền định là gì?’ đã chiếm hết toàn bộ thời gian cho phép cộng thêm nửa tiếng đồng hồ nữa và đa phần anh lặp lại điều gì anh đã nói ngày hôm trước. Về thiền định anh nói: ‘Thiền định khôngthiền địnhý thức. Điều gì chúng ta đã được dạy là thiền định cố ý, có ý thức; ngồi bắt chéo hai chân hay nằm xuống hay lặp lại những cụm từ nào đó là một nỗ lực cố ý, có ý thức để thiền định. Người nói trả lời rằng thiền định như thế là vô nghĩa. Nó là thành phần của ham muốn. Ham muốn có một cái trí yên tĩnh cũng giống như ham muốn một ngôi nhà sang trọng hay một cái áo đắt tiền. Thiền địnhý thức hủy diệt, ngăn cản hình thức khác của thiền định.’

Câu hỏi cuối là: ‘Nếu ông là Giám đốc của Laboratory có trách nhiệm bảo vệ quốc gianhận biết những sự việc tồn tại theo cách riêng của chúng, làm thế nào ông sẽ điều khiển những hoạt động của Laboratory và công việc nghiên cứu?’ K trả lời điều này trong:

 

Nếu tôi có một nhóm người mà nói, chúng ta hãy quên tất cả chủ nghĩa quốc gia, tất cả tôn giáo, chúng ta hãy, như những con người, giải quyết vấn đề này – cố gắng cùng nhau giải quyết mà không phá hoại, nếu chúng ta trao thời gian cho tất cả điều đó như một nhóm người hiến dâng tuyệt đối mà đã tụ họp tại Los Alamos vì một mục đíchquan tâm đến tất cả những điều chúng ta đã và đang nói, vậy thì có cái gì đó mới mẻ có thể xảy ra . . . Không người nào có tầm nhìn toàn cầu – một cảm thấy toàn cầu cho tất cả nhân loại – không phải quốc gia của tôi – vì Chúa. Nếu các bạn đã đi khắp thế giới, như người nói đã từng đi, các bạn sẽ khóc than cho suốt phần còn lại của cuộc đời các bạn. Chủ nghĩa hòa bình là một phản ứng của chủ nghĩa quân phiệt, đó là tất cả. Người nói không là một người theo chủ nghĩa hòa bình. Thay vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào nguyên nhân của tất cả điều này – nếu tất cả chúng ta cùng nhau tìm kiếm nguyên nhân, vậy thì vấn đề sẽ được giải quyết. Nhưng mỗi người đều có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân và bám vào những quan điểm của anh ấy, những hướng dẫn theo lịch sử của anh ấy. Vậy thì, thưa bạn, nó đó kìa.

 

Thành viên của khán giả: Thưa ông, nếu tôi được phép nói như vậy – tôi nghĩ ông đã thuyết phục chúng tôi.

 

Krishnamurti: Tôi không đang thuyết phục bất kỳ điều gì cả.

 

Thành viên của khán giả: Điều gì tôi có ý là, khi chúng tôi thực sự cố gắng hiểu rõ điều này và làm cái gì đó trong phương hướng đó, trong chừng mực nào đó chúng tôi có vẻ không có đủ năng lượng cần thiết . . . Nó là cái gì mà đang thực sự kềm hãm chúng tôi? Chúng tôi có thể thấy ngôi nhà đang cháy, nhưng vẫn vậy chúng tôi không thể làm bất kỳ điều gì để chặn đứng vụ cháy.

 

Krishnamurti: Ngôi nhà đang cháy, mà chúng ta nghĩ nó ở đằng đó, là ở đây. Trước tiên,chúng ta phải đặt ngôi nhà của chúng ta trong trật tự, thưa các bạn.69

 

K thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở New York vào tháng tư, sau đó anh là một diễn giả khách mời tại Pacern in Terris Society trong Dag Hammarskjold Library Auditorium của Liên hiệp quốc. Vào dịp này anh không nói điều gì khác biệt với những điều anh đã trình bày trong những nói chuyện trước, mặc dù anh không bao giờ lặp lại trong cùng những từ ngữ .70

Khi K đến Brockwood mùa xuân đó, anh trông thấy một máy đĩa compact được lắp đặt trong căn phòng của anh và làm cho anh vui vẻ rất nhiều. Beethoven là người soạn nhạc anh nghe thường xuyên nhất, kế tiếp là Mozart. Nhưng anh thích nhạc cổ điển cũng như nhạc Ấn độ, đặc biệt nhạc thánh ca. Scott Forbes sẽ viết cho tôi sau khi K chết:

 

Trong nhiều năm tôi thường đi lên phòng ngủ của ông (K) trong khi ông đang ăn sáng, cũng là lúc ông nghe nhạc. Ông thường ngồi trong giường với cái khay để trên đùi, và hai bàn chân của ông thường – hầu như không trông thấy – nhảy múa nhịp nhàng theo điệu nhạc dưới cái mền. Và tôi cũng thường nghe một phần bản nhạc ông đang nghe hay, trong những năm sau, nghe nguyên bản nhạc cùng ông. Không phải vì rằng nó là một hệ thống âm thanh nổi tuyệt vời; trái lại, bằng một chất lượng của lắng nghe vượt khỏi điều gì tôi thường quen thuộc và dường như hiện diện tự nhiên khi tôi đang nghe nhạc cùng ông.

 

Rủi thay, bây giờ Chalet Tannegg đã được bán vì vậy nó không thể được thuê cho họp mặt Saanen. Thay vì thế, một chalet tại Schonried ngay phía trên Gstaad, được thuê bởi Scaravelli và Fosca và dành riêng cho K, như Tannegg lúc trước. K không thích nó nhiều bằng Tannegg; anh tiếp tục những dạo bộ buổi chiều thường lệ qua một cánh rừng đến con sông, nhưng lúc này anh phải lái xe đến Tannegg trước khi bắt đầu bạo bộ. Mỗi lần họ đến cánh rừng, anh thường nói to, ‘Xin phép cho chúng tôi vào nhé?’

Tháng chín năm đó, vài ủy viên từ Ấn độ và Mỹ có mặt tại Brockwood cho một gặp gỡ quốc tế. Trong khi K ở Mỹ, Scott Forbes đã tìm được một kiến trúc sư mà lúc này không chỉ có thể đưa ra một đề án mà còn làm một mô hình bởi vì K không thể đọc những đề án kiến trúc. Khi K trông thấy mô hình anh lập tức không thích nó; anh nói nó trông giống như một khách sạn xa lộ. Những ủy viên có mặt ở đó cũng đồng ý với anh. Thay vì tiếp tục làm việc với kiến trúc sư đó, Scott quyết định tìm một người khác. Đặc điểm kỹ thuật là một thách thức cho bất kỳ kiến trúc sư nào muốn rời khỏi ý tưởng thiết kế của một khách sạn xa lộ: hai mươi phòng ngủ nhỏ, mỗi phòng có vòi tắm và rửa mặt riêng, một phòng khách, thư viện, khu làm việc của nhân viên, và nhà bếp, và, còn quan trọng nhiều hơn mọi thứ khác, một phòng ‘yên lặng’. K đã viết: ‘Nên có một phòng nơi bạn đến để yên lặng. Phòng đó chỉ được sử dụng cho việc đó . . . Nó giống như một lò sưởi làm ấm áp nguyên một ngôi nhà . . . Nếu bạn không thể có nó, Trung tâm chỉ trở thành một đoạn đường, mọi người đến và đi, làm việc và hoạt động.’ K quả quyết rằng tất cả vật liệu được sử dụng cho tòa nhà phải thuộc chất lượng tốt nhất; anh muốn mọi nơi phải đạt tiêu chuẩn hoàn hảo nhất.

 Sau khi thử qua nhiều kiến trúc sư, tình cờ khi đọc một bài báo Scott Forbes biết được Keith Crichlow. Không một tòa nhà nào do ông xây dựng có mặt ở nước Anh nhưng ông đưa cho Scott xem những bức ảnh về những công trình của ông ở nước ngoài, mà đa phần là những tòa nhà tôn giáo. Tháng sáu năm sau, Critchlow được mời đến Brockwood để gặp K, mà ngay tức khắc cảm thấy rằng ông là người đúng – do bởi nhân cách và nói chuyện của ông nhiều hơn là những bản vẽ của ông. Mặc dù là một người Anh và một thành viên của Royal College of Art, nơi ông dạy, Critchlow không đủ điều kiện để làm việc ở Anh, vì vậy công ty Triad ở Anh được sử dụng để thực hiện những đề án của ông.

 Một đơn xin phép xây dựng bị từ chối vào tháng hai năm 1985. Vào tháng ba, trong phiên tòa kháng án, người ta phát hiện đơn xin đó bị sai nguyên tắc, nên cả đơn xin lẫn đơn kiện đều vô giá trị. Vì vậy, một đơn xin khác được thực hiện vào tháng năm và được cấp giấy phép vào tháng tám, nhưng mãi đến ngày 26 tháng hai năm 1986 đơn xin chi tiết mới được chấp thuận.

 Mùa thu năm 1984, Mary Zimbalist phải đi từ Brockwood đến Rome trong hai đêm để gặp một bảo mẫu già người Ý lúc trước làm việc cho chị tại Malibu. Khi chị quay lại, K nói với chị: ‘Khi em đi khỏi anh phải xoay sở mọi việc rất khó khăn. Em phải gấp lên để hiểu rõ. Anh có lẽ sống mười năm nữa nhưng em phải hiểu rõ.’ Tại thời gian đó anh thường xuyên nói với chị, ‘Em phải phác thảo những nét chính về anh với mục đích chăm sóc con người này,’ hàm ý hoàn toàn khách quan đối với chính anh. Lúc này tự nhiên anh cảm thấy một khẩn cấp mãnh liệt phải chuyển sang và giáo dục những người trẻ để tiếp tục sau khi anh chết.

 K cùng Mary Zimbalist đến Delhi vào ngày 28 tháng mười năm 1984, ở với Pupul Jayakar một tuần lễ. Ba ngày sau Mrs Gandhi, sống cùng con đường, bị ám sát. Biến cố kinh hoàng này tác động vào những ngày còn lại của K ở Ấn độ mùa đông đó, mặc dù nó không cản trở anh thực hiện những nói chuyện thường lệ của anh tại Rajghat, Madras và Bombay, cũng như nói chuyện mỗi ngày cùng giáo viên và học sinh tại Rishi Valley suốt ba tuần anh ở đó. Như thói quen của anh, anh ghé lại Brockwood bốn ngày vào tháng hai năm 1985 trong chuyến đi từ Bombay đến Ojai.

Khi anh tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles vào ngày 17 tháng hai anh chỉ còn một năm để sống đến ngày cuối cùng.

Tháng ba anh khám sức khỏe tổng quát hàng năm nơi một bác sĩ trẻ tuổi mới ra nghề. Một người bạn của Mary đã giới thiệu người bác sĩ này khi bác sĩ trước của K ở Los Angeles khuyên anh nên tìm một bác sĩ gần Ojai hơn. K chấp thuận bác sĩ này ngay tức khắc. Đây là người bác sĩ sẽ theo sát anh đến căn bệnh cuối cùng của anh.



[1] Montague Simmons chết năm 1986, và Dorothy năm 1989. Doris Pratt cũng chết năm 1989.

[2] Friedrich Grobe cuối cùng đã trở thành ủy viên của cả English và American Foundations


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26216)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21624)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12952)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19827)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13819)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22777)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11987)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12425)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24046)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13733)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25646)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19248)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23237)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21405)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18331)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15461)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17877)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21964)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17542)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28074)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17159)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22623)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28233)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14015)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17060)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22312)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14162)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21492)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20829)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15062)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26597)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19292)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31605)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30652)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21025)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23578)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25622)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25395)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19732)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18485)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17797)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19063)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant