Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6891)
19. Em phải gấp lên để hiểu rõ

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

19

Em phải gấp lên để hiểu rõ

T

háng tư năm 1983, K đi đến New York lại, lần này thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở Madison Square Garden mà chứa được một lượng khán giả thậm chí còn đông hơn cả Carnegie Hall. Hai phóng viên phỏng vấn anh cho tờ East West Journal phê bình: ‘Chúng tôi gặp một con người rụt rèlễ phép nhưng dường như có sự kiên nhẫn vô hạn, tuy nhiên cùng lúc lại bày tỏ một mãnh liệt và một ý thức của sứ mệnh . . . Sự rõ ràng và những giải thích sâu sắc của anh làm chúng tôi khựng lại nhiều lần, để lại cho chúng tôi một cảm giác rằng đây là một con người tự do thực sự mà, không cần cố gắng, đã đạt được cái gì mà tôi cảm thấy là một loại nổi loạn tinh thần – một tầm nhìn thiêng liêngđạo đức nghiêm túc, tuyệt đối độc lập khỏi những tôn giáo và những học thuyết chính thống.’

 Tiếp theo những nói chuyện ở New York, tại họp mặt Ojai, một cuộn phim màu trọn bộ về sống của K được chiếu, mà Evelyne Blau, một trong những ủy viên của American Foundation, phải mất năm năm để thực hiện. Được gọi là The Challenge of Change Sự thách thức của Thay đổi và được đạo diễn bởi Michael Mendizza, lời đọc bởi diễn viên Mỹ Richard Chamberlain, K ngồi xem hết cuộn phim, cái gì đó hiếm hoi với anh, bởi vì anh chưa bao giờ muốn xem anh trên truyền hình hay nghe những phỏng vấn phát thanh của anh cũng như đọc bất kỳ quyển sách riêng nào của anh. Rõ ràng anh thích cuộn phim này, cùng những cảnh quay đẹp về Thụy sĩ và Ấn độ của nó. Nó đã có những lần chiếu rất thành công trong nhiều thành phố khác nhau ở Mỹ.

 Ngay sau khi K và Mary đến Brockwood vào tháng sáu, Dorothy Simmons bị đau tim đột ngột. Mặc dù bà hồi phục, bà không còn có thể đảm đương toàn gánh nặng của ngôi trường như bà đã làm thật xuất sắc suốt mười bốn năm. Bà về hưu, nhưng tiếp tục sống tại Brockwood cùng người chồng của bà, mà chính ông ấy cũng về hưu sớm hơn vài năm.[1] Cuối cùng, một người Mỹ còn trẻ, Scott Forbes, kết hôn với một cô gái từ South Africa dạy múa ở trường, được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng mới. Một con người năng động trẻ tuổi đã làm việc tại Brockwood khoảng mười năm, hầu như đảm trách phần video (bây giờ đã có dụng cụ màu), Scott đi rất nhiều, đã sống một khoảng thời gian ở Paris và có một công việc kinh doanh bán đồ cổ nhỏ ở Geneva trước khi bất ngờ gặp K khi anh, do tình cờ, đến Saanen vào một mùa hè. Anh ấy đã lắng nghe một nói chuyện và bị say đắm. Trong khi làm việc cho K, anh hoàn toàn thay đổi cách sống, và vẫn còn giữ nguyên sức làm việc của anh. Người vợ của anh đảm trách phần video sau khi anh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng.

 Vẫn còn tại Gstaad, sau họp mặt Saanen 1983, K sẽ gặp một người mà giúp anh thành tựu ước nguyện được ấp ủ nhiều nhất của anh vào lúc này – thành lập một trung tâm người lớn tại Brockwood, hoàn toàn độc lập khỏi ngôi trường, nơi mọi người có thể đi đến cho mục đích duy nhấthọc hỏi lời giảng của anh. Người đàn ông tuổi trung niên này là Friedrich Grohe, một người Đức đang sống ở Thụy sĩ, bốn năm trước đã rút lui khỏi việc kinh doanh gia đình, được quốc tế biết đến về việc chế tạo phòng tắm và những vòi khóa nước nhà bếp. Sau khi đọc một trong những quyển sách của K năm 1980 (The Impossible Question Câu hỏi không thể trả lời được) đã khẳng định hướng sống của anh từ thời điểm đó trở đi, dùng những từ ngữ của anh ấy. Anh ấy đến gặp K tại Tannegg bởi vì anh ấy nóng lòng muốn bắt đầu một trường Krishnamurti ở Thụy sĩ. K can ngăn anh ấy đừng nên thực hiện việc này, nói rằng tìm những giáo viên khó khăn lắm. (Khi K hỏi anh ấy đã lập gia đình hay chưa và anh ấy trả lời không, anh ấy đã ly dị, K nắm cánh tay anh ấy và nói ‘Tốt’.)[2] Năm sau, trong một lần thăm Brockwood, Friedrich Grobe đề nghị rằng, thay vì thành lập một ngôi trường, anh ấy tài trợ cho việc xây dựng trung tâm tìm hiểu. K tiếp nhận đầy nhiệt thành đề nghị này. Một vị trí đẹp được chọn lựa, gần nhưng không nhìn thấy được từ tòa nhà của trường học, có thể nhìn thấy suốt những phong cảnh ở phía nam qua những cánh đồng trống. K giao cho Scott Forbes nhiệm vụ tìm một kiến trúc sư và xin giấy phép xây dựng.

 Mùa đông năm1983 – 84 đó, sau một chương trình đầy đủ ở Ấn độ, K quay lại Ojai vào tháng hai, khá kiệt sức, để giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc khánh thành một trường trung học tại Ojai, kế cận trường tiểu học Oak Grove. Tháng ba anh được Dr M. R. Raju của National Laboratory Research Center tại Los Alamos ở New Mexico mời tham dự một hội nghị chuyên đề về ‘Sáng tạo trong Khoa học’. Trung tâm nghiên cứu về nguyên tử ở Mỹ này đã tập hợp được một số khán giả mới gây hứng thú cho K. 8 giờ sáng ngày 19 tháng ba, anh nói chuyện trên một tiếng đồng hồ với khoảng 700 người khoa học, về đề tài hiểu biết không bao giờ có thể là sáng tạo bởi vì nó không trọn vẹn. Anh chấm dứt:

 

Chắc chắn sáng tạo có thể xảy ra chỉ khi nào tư tưởng bặt tăm . . . Khoa học là chuyển động của hiểu biết được thâu lượm nhiều hơn và nhiều hơn và nhiều hơn. ‘Nhiều hơn’ là sự đo lường, và tư tưởng có thể được đo lường bởi vì nó là một tiến hành thuộc vật chất. Hiểu biết có sự thấu hiểu riêng của nó, sự sáng tạo bị giới hạn riêng của nó, nhưng điều này tạo ra sự xung đột. Chúng ta đang nói về sự nhận biết tổng thể trong đó cái ngã, cái ‘tôi’, cái nhân cách, không len lỏi vào được. Chỉ đến lúc đó mới có cái sự việc được gọi là sáng tạo này. Đó là nó.

 

Sáng hôm sau K trả lời những câu hỏi cho một số khán giả ít hơn, được giới hạn trong những người bạn của Los Alamos National Laboratory. Trong mười lăm câu hỏi được đưa ra, anh chỉ trả lời câu đầu tiên và cuối cùng. Trả lời cho câu hỏi đầu tiên ‘Sáng tạo là gì? Thiền định là gì?’ đã chiếm hết toàn bộ thời gian cho phép cộng thêm nửa tiếng đồng hồ nữa và đa phần anh lặp lại điều gì anh đã nói ngày hôm trước. Về thiền định anh nói: ‘Thiền định khôngthiền địnhý thức. Điều gì chúng ta đã được dạy là thiền định cố ý, có ý thức; ngồi bắt chéo hai chân hay nằm xuống hay lặp lại những cụm từ nào đó là một nỗ lực cố ý, có ý thức để thiền định. Người nói trả lời rằng thiền định như thế là vô nghĩa. Nó là thành phần của ham muốn. Ham muốn có một cái trí yên tĩnh cũng giống như ham muốn một ngôi nhà sang trọng hay một cái áo đắt tiền. Thiền địnhý thức hủy diệt, ngăn cản hình thức khác của thiền định.’

Câu hỏi cuối là: ‘Nếu ông là Giám đốc của Laboratory có trách nhiệm bảo vệ quốc gianhận biết những sự việc tồn tại theo cách riêng của chúng, làm thế nào ông sẽ điều khiển những hoạt động của Laboratory và công việc nghiên cứu?’ K trả lời điều này trong:

 

Nếu tôi có một nhóm người mà nói, chúng ta hãy quên tất cả chủ nghĩa quốc gia, tất cả tôn giáo, chúng ta hãy, như những con người, giải quyết vấn đề này – cố gắng cùng nhau giải quyết mà không phá hoại, nếu chúng ta trao thời gian cho tất cả điều đó như một nhóm người hiến dâng tuyệt đối mà đã tụ họp tại Los Alamos vì một mục đíchquan tâm đến tất cả những điều chúng ta đã và đang nói, vậy thì có cái gì đó mới mẻ có thể xảy ra . . . Không người nào có tầm nhìn toàn cầu – một cảm thấy toàn cầu cho tất cả nhân loại – không phải quốc gia của tôi – vì Chúa. Nếu các bạn đã đi khắp thế giới, như người nói đã từng đi, các bạn sẽ khóc than cho suốt phần còn lại của cuộc đời các bạn. Chủ nghĩa hòa bình là một phản ứng của chủ nghĩa quân phiệt, đó là tất cả. Người nói không là một người theo chủ nghĩa hòa bình. Thay vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào nguyên nhân của tất cả điều này – nếu tất cả chúng ta cùng nhau tìm kiếm nguyên nhân, vậy thì vấn đề sẽ được giải quyết. Nhưng mỗi người đều có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân và bám vào những quan điểm của anh ấy, những hướng dẫn theo lịch sử của anh ấy. Vậy thì, thưa bạn, nó đó kìa.

 

Thành viên của khán giả: Thưa ông, nếu tôi được phép nói như vậy – tôi nghĩ ông đã thuyết phục chúng tôi.

 

Krishnamurti: Tôi không đang thuyết phục bất kỳ điều gì cả.

 

Thành viên của khán giả: Điều gì tôi có ý là, khi chúng tôi thực sự cố gắng hiểu rõ điều này và làm cái gì đó trong phương hướng đó, trong chừng mực nào đó chúng tôi có vẻ không có đủ năng lượng cần thiết . . . Nó là cái gì mà đang thực sự kềm hãm chúng tôi? Chúng tôi có thể thấy ngôi nhà đang cháy, nhưng vẫn vậy chúng tôi không thể làm bất kỳ điều gì để chặn đứng vụ cháy.

 

Krishnamurti: Ngôi nhà đang cháy, mà chúng ta nghĩ nó ở đằng đó, là ở đây. Trước tiên,chúng ta phải đặt ngôi nhà của chúng ta trong trật tự, thưa các bạn.69

 

K thực hiện những nói chuyện tại Felt Forum ở New York vào tháng tư, sau đó anh là một diễn giả khách mời tại Pacern in Terris Society trong Dag Hammarskjold Library Auditorium của Liên hiệp quốc. Vào dịp này anh không nói điều gì khác biệt với những điều anh đã trình bày trong những nói chuyện trước, mặc dù anh không bao giờ lặp lại trong cùng những từ ngữ .70

Khi K đến Brockwood mùa xuân đó, anh trông thấy một máy đĩa compact được lắp đặt trong căn phòng của anh và làm cho anh vui vẻ rất nhiều. Beethoven là người soạn nhạc anh nghe thường xuyên nhất, kế tiếp là Mozart. Nhưng anh thích nhạc cổ điển cũng như nhạc Ấn độ, đặc biệt nhạc thánh ca. Scott Forbes sẽ viết cho tôi sau khi K chết:

 

Trong nhiều năm tôi thường đi lên phòng ngủ của ông (K) trong khi ông đang ăn sáng, cũng là lúc ông nghe nhạc. Ông thường ngồi trong giường với cái khay để trên đùi, và hai bàn chân của ông thường – hầu như không trông thấy – nhảy múa nhịp nhàng theo điệu nhạc dưới cái mền. Và tôi cũng thường nghe một phần bản nhạc ông đang nghe hay, trong những năm sau, nghe nguyên bản nhạc cùng ông. Không phải vì rằng nó là một hệ thống âm thanh nổi tuyệt vời; trái lại, bằng một chất lượng của lắng nghe vượt khỏi điều gì tôi thường quen thuộc và dường như hiện diện tự nhiên khi tôi đang nghe nhạc cùng ông.

 

Rủi thay, bây giờ Chalet Tannegg đã được bán vì vậy nó không thể được thuê cho họp mặt Saanen. Thay vì thế, một chalet tại Schonried ngay phía trên Gstaad, được thuê bởi Scaravelli và Fosca và dành riêng cho K, như Tannegg lúc trước. K không thích nó nhiều bằng Tannegg; anh tiếp tục những dạo bộ buổi chiều thường lệ qua một cánh rừng đến con sông, nhưng lúc này anh phải lái xe đến Tannegg trước khi bắt đầu bạo bộ. Mỗi lần họ đến cánh rừng, anh thường nói to, ‘Xin phép cho chúng tôi vào nhé?’

Tháng chín năm đó, vài ủy viên từ Ấn độ và Mỹ có mặt tại Brockwood cho một gặp gỡ quốc tế. Trong khi K ở Mỹ, Scott Forbes đã tìm được một kiến trúc sư mà lúc này không chỉ có thể đưa ra một đề án mà còn làm một mô hình bởi vì K không thể đọc những đề án kiến trúc. Khi K trông thấy mô hình anh lập tức không thích nó; anh nói nó trông giống như một khách sạn xa lộ. Những ủy viên có mặt ở đó cũng đồng ý với anh. Thay vì tiếp tục làm việc với kiến trúc sư đó, Scott quyết định tìm một người khác. Đặc điểm kỹ thuật là một thách thức cho bất kỳ kiến trúc sư nào muốn rời khỏi ý tưởng thiết kế của một khách sạn xa lộ: hai mươi phòng ngủ nhỏ, mỗi phòng có vòi tắm và rửa mặt riêng, một phòng khách, thư viện, khu làm việc của nhân viên, và nhà bếp, và, còn quan trọng nhiều hơn mọi thứ khác, một phòng ‘yên lặng’. K đã viết: ‘Nên có một phòng nơi bạn đến để yên lặng. Phòng đó chỉ được sử dụng cho việc đó . . . Nó giống như một lò sưởi làm ấm áp nguyên một ngôi nhà . . . Nếu bạn không thể có nó, Trung tâm chỉ trở thành một đoạn đường, mọi người đến và đi, làm việc và hoạt động.’ K quả quyết rằng tất cả vật liệu được sử dụng cho tòa nhà phải thuộc chất lượng tốt nhất; anh muốn mọi nơi phải đạt tiêu chuẩn hoàn hảo nhất.

 Sau khi thử qua nhiều kiến trúc sư, tình cờ khi đọc một bài báo Scott Forbes biết được Keith Crichlow. Không một tòa nhà nào do ông xây dựng có mặt ở nước Anh nhưng ông đưa cho Scott xem những bức ảnh về những công trình của ông ở nước ngoài, mà đa phần là những tòa nhà tôn giáo. Tháng sáu năm sau, Critchlow được mời đến Brockwood để gặp K, mà ngay tức khắc cảm thấy rằng ông là người đúng – do bởi nhân cách và nói chuyện của ông nhiều hơn là những bản vẽ của ông. Mặc dù là một người Anh và một thành viên của Royal College of Art, nơi ông dạy, Critchlow không đủ điều kiện để làm việc ở Anh, vì vậy công ty Triad ở Anh được sử dụng để thực hiện những đề án của ông.

 Một đơn xin phép xây dựng bị từ chối vào tháng hai năm 1985. Vào tháng ba, trong phiên tòa kháng án, người ta phát hiện đơn xin đó bị sai nguyên tắc, nên cả đơn xin lẫn đơn kiện đều vô giá trị. Vì vậy, một đơn xin khác được thực hiện vào tháng năm và được cấp giấy phép vào tháng tám, nhưng mãi đến ngày 26 tháng hai năm 1986 đơn xin chi tiết mới được chấp thuận.

 Mùa thu năm 1984, Mary Zimbalist phải đi từ Brockwood đến Rome trong hai đêm để gặp một bảo mẫu già người Ý lúc trước làm việc cho chị tại Malibu. Khi chị quay lại, K nói với chị: ‘Khi em đi khỏi anh phải xoay sở mọi việc rất khó khăn. Em phải gấp lên để hiểu rõ. Anh có lẽ sống mười năm nữa nhưng em phải hiểu rõ.’ Tại thời gian đó anh thường xuyên nói với chị, ‘Em phải phác thảo những nét chính về anh với mục đích chăm sóc con người này,’ hàm ý hoàn toàn khách quan đối với chính anh. Lúc này tự nhiên anh cảm thấy một khẩn cấp mãnh liệt phải chuyển sang và giáo dục những người trẻ để tiếp tục sau khi anh chết.

 K cùng Mary Zimbalist đến Delhi vào ngày 28 tháng mười năm 1984, ở với Pupul Jayakar một tuần lễ. Ba ngày sau Mrs Gandhi, sống cùng con đường, bị ám sát. Biến cố kinh hoàng này tác động vào những ngày còn lại của K ở Ấn độ mùa đông đó, mặc dù nó không cản trở anh thực hiện những nói chuyện thường lệ của anh tại Rajghat, Madras và Bombay, cũng như nói chuyện mỗi ngày cùng giáo viên và học sinh tại Rishi Valley suốt ba tuần anh ở đó. Như thói quen của anh, anh ghé lại Brockwood bốn ngày vào tháng hai năm 1985 trong chuyến đi từ Bombay đến Ojai.

Khi anh tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles vào ngày 17 tháng hai anh chỉ còn một năm để sống đến ngày cuối cùng.

Tháng ba anh khám sức khỏe tổng quát hàng năm nơi một bác sĩ trẻ tuổi mới ra nghề. Một người bạn của Mary đã giới thiệu người bác sĩ này khi bác sĩ trước của K ở Los Angeles khuyên anh nên tìm một bác sĩ gần Ojai hơn. K chấp thuận bác sĩ này ngay tức khắc. Đây là người bác sĩ sẽ theo sát anh đến căn bệnh cuối cùng của anh.



[1] Montague Simmons chết năm 1986, và Dorothy năm 1989. Doris Pratt cũng chết năm 1989.

[2] Friedrich Grobe cuối cùng đã trở thành ủy viên của cả English và American Foundations


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34346)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16872)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22971)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13052)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21966)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22187)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23578)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24104)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23641)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17144)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19360)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27065)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14423)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13843)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22689)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14748)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17358)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12669)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13868)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10410)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14698)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17199)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12547)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12699)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10357)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10699)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11134)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16880)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15768)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13341)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12553)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11359)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13028)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19309)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12250)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28607)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10048)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21522)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12791)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17825)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26235)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11706)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10852)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22747)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12037)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10606)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11410)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11526)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant