Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8071)
05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

CHƯƠNG 5

 “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

M

ột nhóm bạn bè thân thiết của anh theo cùng Krishna đến Pergine ở Ý. Lady Emily, cùng hai cô con gái Betty và Mary, cũng có mặt; cũng cả Helen Knothe, một phụ nữ trẻ người Mỹ và một trong những người bạn thân của Krishnaji; Dr. Shivakamu, chị của Rukmini Arundale; Malti; vợ của Patwardhan; một người bạn thân khác của K, Ruth, John Cordes, người đại diện ở Áo của Star, đã ở Adyar năm 1911 và 1912 và lúc đó chịu trách nhiệm cho đào tạo, sức khoẻ, và những bài tập thể dục của Krishna. Rama Rao và Jadunandan Prasad, những người đồng hợp tác thân thiết của K ở Ấn độ, Và D. Rajagopal cũng trong nhóm. Câu chuyện không được biết đến này của K ở Pergine được tìm thấy trong số những giấy tờ của Shiva Rao sau khi anh chết. Mặc dù sự nhận dạng của tác giả không biết được, tài liệu có vẻ trung thực.

 

______________

 

Ngày 29 tháng tám năm 1924:

 

 Ở đây sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt và hầu như hoàn toàn theo quán tính ở phía bên ngoài. Hay đó là việc gì nó nên là và việc gì Krishnaji mong muốn.

Vào những kỳ nghỉ trước thuộc loại này, khi Krishna đã tụ họp quanh anh những người anh mong muốn giảng dạy và giúp đỡ và đã lui về một nơi yên tĩnh nào đó xa khỏi nền văn minh, đã không có một kế hoạch sắp đặt sẵn của hành động. Dĩ nhiên, Krishnaji đã nói chuyện cá nhân với mỗi người đi theo, nhưng trước đó chưa bao giờ những Bậc Thầy đã nói chuyện với tất cả tập thể chúng tôi cùng một lúc, như trong nhóm hiện nay của chúng tôi, để cho mỗi thứ bậc và những người vẫn còn tách rời có lẽ lắng nghe và nói chuyện cởi mở về họ.

Chúng tôi hiện diện ở đây chỉ vì một mục đích, thực hiện “những bước” rõ rệt và qua đó trở nên hữu dụng một cách trực tiếp đối với Họ. Mỗi người có cơ hội của anh ấy, mỗi người tại một chặng đường khác nhau, và vì vậy có thể phục vụ những người ở trên và giúp đỡ những người ở dưới. (Những thuật ngữ như ở trên hay ở dưới có lẽ dẫn đến sự hiểu sai, tôi sử dụng chúng không hàm ý một người cao hơn hay thấp hơn, nhưng chỉ là một phân biệt.)

Thời khóa biểu cho một ngày là, tham thiền vào lúc tám giờ mười lăm, ăn sáng tám giờ ba mươi. Một chuyến dạo bộ xuống một cánh đồng lởm chởm mênh mông nơi chúng tôi chơi rounders khoảng một hay hai tiếng, và sau đó nói chuyện một tiếng dưới những cái cây, về những Bậc Thầy và về làm thế nào để phục vụ Họ. Ăn trưa lúc 12:30 – nghỉ ngơi hay công việc cá nhân, nếu muốn, cho đến ba giờ; những trò chơi trong sân của Castle, tắm và ăn tối lúc sáu giờ. Sau đó tất cả chia tay để nghỉ đêm, vài người chúng tôi đi đến tháp Square nơi sự chuẩn bị chuyên sâu tiếp tục một tiếng đồng hồ. Ngủ 8:30.

Dĩ nhiên, Krishnaji là nhân vật trung tâm của mỗi ngày; của trò chơi, và của công việc. Quanh anh mọi thứ [được] tập trung; sống của Krishnaji là một sống của sự hiến dâng tuyệt đối cho Chúa, sự tôn sùng thật đam mê của lý tưởng và vẻ đẹp – và tuy nhiên anh là con người quá hoàn hảo và rất gần gũi với bạn bè. Không từ ngữ nào có thể mô tả nhân cách của anh, nhưng dường như anh giống như một con người đã tự hoàn chỉnh chính mình đến một mức độ tuyệt vời, hơn là một hiện diện thiêng liêng trong một hình dạng con người không hoàn hảo. Chắc chắn điều gì Chúa sẽ ao ước, sẽ là một công cụ con người hoàn hảo, để cho Ngài có thể tiếp xúc với nhân loại trên mức độ riêng của nó. Sự thiêng liêng mà Chính Ngài sẽ thể hiện qua công cụ. Ngoại trừ sự hiện thân của Thầy Thế giới đến thế giới của Thầy, không bao giờ có một hiệp thông giữa những thứ Thiêng liêng và những thứ mà là con người. Bởi vì thông thường con người vươn lên Thiêng liêng và khoảnh khắc nó tiếp xúc được nó trở thành một cùng Thiêng liêng, nhưng trong trường hợp này Thiêng liêng hạ xuống một công cụ con người, sử dụng nó, làm việc qua nó như chính nó tự tạo thành một đơn vị và tách khỏi nó, và lui về lại để cho công cụ vẫn còn là một công cụ con người. Chắc chắn sự tiến hóa của một công cụ con người thường quá mau lẹ đến độ hầu như tức khắc nó trở thành siêu nhân (qua sự phục vụ này) nhưng đây là một qui trình tách rời. Con người có lẽ vươn lên và trở thành Thiêng liêng nhưng anh ấy không thể sử dụng những quyền năng của Thiêng liêng trong khi anh ấy vẫn còn là con người. Trái lại, Thiêng liêng có thể hạ xuống và sử dụng những quyền năng của con người, mặc dù anh ấy không còn là con người nữa.

Hôm nay, tại bữa ăn sáng Krishnaji rất sinh động, và như thường lệ nói chuyện của chúng tôi không thể in ra được. Sáng hôm sau, một nói chuyện rất nghiêm túc hay một công việc gian nan của buổi chiều, Krishnaji sẽ thường xuyên bông lông nhiều, nói những chuyện đùa và cười cợt chúng rất náo động, cùng những bột phát đột ngột vang to của tiếng cười ngặt nghẽo, hay tiếng cười khúc khích kéo dài, lan truyền qua những người khác. Hai điều lạ lùng về anh – thứ nhất, khả năng của anh để thay đổi từ một tâm trạng nghiêm túc, thực sự và vinh quang nhất, thành một tâm trạng giỡn cợt và đùa bỡn [,] tức khắc; thứ hai, không câu chuyện đùa dù thô thiển đến chừng nào mà anh thốt ra, khiến cho bầu không khí thông thường có thể góp phần vào câu chuyện đó. Có vẻ như thể vẻ đẹp của anh, sự rõ ràng tuyệt đối của hiện diện của anh, quét sạch mọi thứ trước mặt nó, đến độ anh có thể tiếp xúc bất kỳ người nào, hay vật nào hay chủ đề nào, và chuyển tải sự hồn nhiên của anh vào nó, trao tặng nó không khí trong lành bởi sự hiện diện của anh. Krishnaji cố gắng nhớ lại những trải nghiệm riêng của anh. Khi lần đầu tiên anh và Nitya gặp C. W. L., anh đưa cho họ xem những bức tranh của Thầy M. và Thầy K. H. và hỏi họ Thầy nào họ ưa thích hơn. Khi họ chọn bức tranh của Thầy K. H., anh nói đó chính là điều anh suy nghĩ.

Khi Krishnaji còn nhỏ, những Bậc Thầy rất thực sự đối với anh, chính là vậy nên anh viết “Ngay chân Thầy,” tiếp theo đến thời kỳ khi đối với anh thực sự không còn mãnh liệt lắm, anh chỉ tin tưởng bởi vì điều gì C. W. L. và A. B. đã nói. Lúc này lại nữa thực sự mãnh liệt đã quay trở lại. Nitya nói rằng nhóm của chúng tôi sẽ tạo ra một bầu không khí mà phải “thu hút” sự chú ý của Họ. Anh nói về những ảnh hưởng khác biệt tại Ojai, vào những đêm khác nhau. Ảnh hưởng của Thầy M. như một quyền năng mà làm cho bạn cảm thấy có khả năng về bất kỳ việc gì. Ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự độ lượng hoàn hảo – nó có vẻ như là mật ngọt đang chảy vào bạn khi Ngài nói. Và ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự trong sáng tuyệt đối, sự minh bạch hoàn hảo. Tiếp theo, ảnh hưởng vĩ đại nhất của tất cả những ảnh hưởng, ảnh hưởng của Chúa, như chúng tôi cũng đã cảm thấy tại Ehrwald[10] – an bình – “an bình mà chuyển thành sự hiểu rõ.”

Krishnaji nói về Adyar như về một ngôi nhà quyền năng phi thường, nơi hoặc bạn trở thành một vị thánh, trở nên điên khùng, hoặc bị đuổi đi như người vô dụng bởi một người quan sát luôn luôn chính xác.

Tôi chưa bao giờ thấy anh đẹp rực rỡ như lúc này vào những buổi tối, tại những thời điểm này. Đôi mắt của anh tươi cười bằng một hân hoan siêu thoát lạ thường, mà là hoan hỉtuy nhiên lại quá thanh thoát. Sự thanh thoát và một hân hoan tha thiết và thuần khiết choàng quanh anh, và biểu hiện trong những đường nét và những khúc khủy, và một hương thơm của những bông hồng lan tỏa và bao bọc anh. Thỉnh thoảng, anh run rẩy như thể bị lạnh và vào những lúc khác anh lại quá mệt nhoài, nhưng vào những đêm này, những đêm đặc biệt này mà tôi đang nói, Krishna thực sự, tất cả điều đó khiến cho anh là cái gì anh là trong ý nghĩa sâu thẳm nhất, đến và nhìn ra ngoài qua đôi mắt của anh.

Ngày 1 tháng giêng năm 1924:

 Lady Emily so sánh Rajagopal với St. Peter. Có vẻ anh là Người Hề Vui nhộn trong số những môn đệ hiện nay; và anh thiết tha thương yêu chức vụ của anh như High Court Jester Anh Hề. Muốn biết Krishnaji, người ta phải biết những người theo anh. Lúc trước, Rajagopal là St. Bernard của Clairveaux, và vào những thời điểm khác, anh đã là một giáo sĩ được kính trọng; và cả vị thánh lẫn giáo sĩ trỗi dậy nơi anh lặp đi và lặp lại. Đặc biệt có lẽ là người sau. Anh nói liên tục, và khi nói năng lại dài dòng và nhạt nhẽo, thật ra anh lên lớp về đạo đức một cách rỗng tuếch. Anh ham mê hay nói khác hơn giả vờ rất ưa thích thức ăn, điều này là chủ đề chính của anh cho những câu chuyện đùa vân vân. Khi Krishnaji bị căng thẳngmệt mỏi, hay nói chung cả nhóm, bị buồn chán, Rajagopal luôn luôn có sẵn vài câu chuyện đùa, hay những cụm từ vui nhộn, và anh tự động cười dai dẳng đến độ mọi người phải cười theo. Người ta nói rằng một phẩm chất mà tất cả những Bậc Thầy phải có, và nếu không có nó thì tất cả những môn đệ không thể tiến bộ được, là khiếu hài hước. Và sống thuộc tinh thần càng được dẫn dắt nhiều bao nhiêu, điều này càng trở nên rõ ràng nhiều bấy nhiêu. Khiếu hài hước sẽ giải tỏa sự căng thẳng của những cảm thấy và những suy nghĩ dưới những tình huống gay go nhất, và thường thường chắc chắn việc đó ngăn cản một cắt đứt rõ ràng trong công việc, hay cá thể trong một người. Chắc chắn sự dí dỏm của Rajagopal không thuộc loại nhạy bén và rõ ràng nhất, nhưng sau đó, nó cho phép Krishnaji và những người khác tham gia và góp thêm sự hài hước của họ. Không cần phải nói, Rajagopal nhận được nhiều chọc ghẹo, nhưng tiếp theo mọi người đến gần Krishna cũng vậy, mà là một cách anh gây ảnh hưởng mọi người; đặc biệt thuộc những phương cách nào đó.

Một trong những lý thuyết của Krishnaji là rằng người ta phải chắc chắn có thể phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan, đến với Thượng đế một cách tự nhiên như một bông hoa nở trước ánh sáng mặt trời. Một thời gian, nó có vẻ gây lo lắng cho anh, rằng mọi người anh gặp gỡ từ trước đến nay đã phát triển trong những cách quanh co của đau khổ, và vì vậy chẳng có bao nhiêu người nhận được cách đơn giản của hân hoan. Tôi nghĩ thậm chí tôi đã nghe anh nói rằng chưa bao giờ gặp bất kỳ ai phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan; dẫu vậy nó có lẽ xảy ra được, mà sẽ trở thành rất thông dụng chỉ khi nào văn minh hiện nay của chúng ta không quá phức tạp. “Hãy tự nhiên, hãy vui vẻ.” Thế là Rajagopal có một vai trò quan trọng trong sự kiện to tát này, trong đó Krishnaji là người đầu tiên sẽ cười, người dễ dàng nhất sẽ được vui vẻ. “Hãy là một Thượng đế, và vui đùa một mình.”

Nói về hai năm được đào tạo bởi Leadbeater của anh, Krishnaji nói anh bị “chán nản đến độ rơi nước mắt,” theo nghĩa đen. Tất cả những ham muốn bị đốt cháy; ví dụ, K và N xin những chiếc xe đạp, (có thể bởi vì họ là những cậu trai còn nhỏ họ đã gây bực mình cho Leadbeater khi xin xe đạp); những chiếc xe đạp được tìm ra và đạp xe mười dặm không chỉ được thực hiện một lần nhưng họ phải thực hiện nó mỗi ngày trong suốt hai năm. Cũng vậy họ diễn tả một ham muốn xin ăn cháo; họ có nó – nhưng lại nữa, mỗi ngày trong suốt một năm; nếu họ có hai bàn chân bẩn thỉu, hay như một lần Nitya ném một viên đá vào một con ếch, nó là “Môn đệ của những Bậc Thầy không làm những việc này.” Nhưng chắc chắn lúc đó có vẻ rất khó khăn cho cậu trai da sẫm bé tí mà sẽ trở thành Krishna của ngày hôm nay – Chúa Jesus của ngày mai.

Anh đã trải qua nhiều sống như một người đàn bà, và những sống này đã để lại một dấu vết rất sâu đậm trong nhân cách của anh; khả năng lạ thường của anh về giáo dục làm cho anh không giống như mọi người đàn ông khác. Thỉnh thoảng anh có thể hung dữ giống hệt như con người ngược lại của anh, nhưng việc này luôn luôn cho một mục đích. Một cụm từ sắc bén ngắn gọn, mà đôi mắt lóe sáng của anh nhấn mạnh đến một mức độ không thể chịu đựng nổi, đó là tất cả. Krishnaji sẽ không bao giờ đề nghị nói chuyện với bất kỳ người nào, nếu một tiếp cận không được thực hiện, và sau đó trong hai hay ba lần đầu tiên mà một nói chuyện nghiêm túc được bắt đầu, anh nhút nhát ghê lắm.

Ngày 8 tháng chín năm 1924:

 Lady Emily, Cordes và tôi ngồi trong phòng của Krishnaji. Krishnaji đang ở trong một phòng tầng dưới. Thời gian vào khoảng bảy giờ mười lăm phút, và mọi chuyện đều giống hệt như những tối thông thường, ngoại trừ một yên lặng huyền bí ập xuống chúng tôi. Nơi nào đó trong cái tháp Nitya, Ramao Rao và Rajagopal đang hát thánh ca, và mùi hương trầm phảng phất trong phòng qua những chỗ nứt trên cửa ra vào. Tất cả chúng tôi cảm thấy Hiện diện của Ngài, làm thế nào ngay cả những người ngốc ngếch nhất mà không nhận ra được sự an bình không thể diễn tả được đang lan tỏa trong khu nhà. Chúng tôi ngồi “yên lặng lạ thường và hạnh phúc vô cùng” suốt một tiếng đồng hồ.

Sau đó, khi tất cả chúng tôi tập hợp lại cùng nhau, và Krishnaji ngồi giữa chúng tôi, nó như thể là chúng tôi chỉ vừa tìm được nhau; và khi chúng tôi kể về việc gì đã xảy ra, một tiếng cười ngọt ngào thấp giọng, của sự hân hoan vô cùng, không thể diễn tả được dường như bật ra trong đôi môi của chúng tôi. “Nếu bây giờ nó như thế này, nó sẽ là gì khi thời gian đến?”

Ngày 14 tháng chín năm 1924:

 Chiều nay thay vì chơi “bóng chuyền” như thường lệ, tất cả chúng tôi đều nằm dài trên những tảng đá chung quanh Square Tower. Krishnaji ngồi chồm hỗm trên những tảng đá cùng Ramao Rao, say mê ngắm nghía một con ốc sên nhỏ màu vàng. Có một lần cách đây vài năm, tôi nhớ đã ở cùng Krishnaji khi anh tìm thấy một đàn kiến và trải qua nguyên buổi sáng cho chúng ăn đường, chọc ghẹo chúng và quan sát chúng khuân trứng và dựng lại tổ của chúng. Vừa nãy, một con ốc sên khác được tìm ra và hai con bị bắt buộc bò qua nhau và bò lên xuống vách đá lởm chởm dốc đứng. Năm ngoái tại Ehrwald, anh nằm dài giữa những đám cỏ cao và hoa dại, bỗng nhiên một con bướm đậu trên bàn tay anh, và chốc lát sau anh lại có một hay hai con vẫy cánh thăng bằng trên đầu ngón tay của anh. Sự thích thú của anh không có giới hạn. Anh có tình yêu tất cả những sinh vật to lớn hay nhỏ bé, thật ra bất kỳ thứ gì đẹp đẽthiên nhiên đều khiến anh vui vẻ; anh sẽ đuổi theo một con cào cào và theo dõi những cử động của nó và thuộc lòng màu sắc hai cánh của nó; hay với câu “Tôi nói!” thông thường của anh, anh sẽ đứng mê mẩn trước một cảnh đẹp. “Chỉ nhìn ngắm cái hồ đó, nó rất êm ả, giống như tảng băng – và xanh đậm. Thấy những phản ảnh trong nó? Ồ, em nên thấy Geneva Lake – quá xanh.”

Krishnaji đọc một đoạn văn ngắn từ quyển “The Gospel of Buddha” “Lời vàng của Phật” trong khi tham thiền mỗi sáng. Thật ra anh là một người mộ đạo và chính âm thanh của danh tánh Chúa Buddha, hầu như có vẻ khiến anh rung động bởi một cảm giác tôn sùng tột đỉnh. Hôm nay có một câu, trong đó Chúa Buddha nói rằng, môn đệ sống trong thế giới phải giống như một bông sen. Ở Ấn độ, bông sen, tượng trưng sự tinh khiết. Khả năng nở hoa trọn vẹn trong khi vẫn bám rễ trong một cái ao bùn loãng của nó biểu hiện khả năng nở hoa trong sự tinh khiết và trỗi dậy từ bất kỳ điều kiện nào dù tối tăm hay ô uế của con người.

Chiều nay Krishnaji đang nói chuyện với tôi. Anh nói về Chúa Buddha và trạng thái hiện diện đó mà không có cái tôi. Những ngày này anh đang suy nghĩ về tuyệt đối không-cá nhân, và dường như anh đã lặn sâu vào cái giếng tinh khiết đó nơi không bị ô uế bởi bùn lầy của cái tôi. Và khi anh nói về Chúa Buddha, một thế giới mới mẻ trải dài trước mặt người ta, trong đó tất cả tham vọng và tình yêu cá nhân đều tan biến và đã trở thành con số không, chỉ một tình yêu vô bờ bến không-cá nhân không-lay động còn hiện diện. Sự nhận ra trọn vẹn của sống không-cái tôi chỉ thức dậy trong Krishnaji khi anh ở Ojai, và thậm chí anh thấy rằng nó hầu như không thể diễn tả được. Anh kể về làm thế nào khi tất cả những Bậc Thầy tụ họp cùng nhau, Chúa Buddha hiện diện giống như cơn gió phía bắc, quá tự do khỏi bất kỳ cái gì giống như cái tôi. Anh nói: “Bất kỳ lúc nào anh thấy bức tranh của Chúa Buddha, anh tự nhủ với mình, anh sẽ giống hệt như thế.”

Hình ảnh của Chúa Maitreya đã hiện ra cho anh rất nhiều dịp. Ở Pergine, khi xuất hiện lần cuối cùng Ngài sẽ trao cho Krishnaji một thông điệp – “Hạnh phúc mà ngươi đang tìm kiếm không phải ở đâu xa xôi; nó ở trong mỗi viên đá bình thường.” Trong một thông điệp khác, Ngài chuyển tải “Đừng tìm kiếm những Hiện diện Vĩ đại khi họ có lẽ ở rất gần con.” Ba buổi tối kế tiếp, Krishnaji sẽ thường xuyên cười đùa, kể những câu chuyện hài hước – nhiều thành viên của nhóm người bị choáng váng khi anh cư xử như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13587)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13736)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22211)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21869)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27376)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17774)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25247)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23274)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22769)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25709)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13989)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13433)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18471)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34508)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27376)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28421)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21371)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14894)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19213)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10618)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18574)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11792)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11341)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11890)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12394)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31979)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11898)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21864)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11093)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12900)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant