Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

26. “Tình yêu không biết đến đau khổ”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8521)
26. “Tình yêu không biết đến đau khổ”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 5

THAY ĐỔI TẦM NHÌN

1962-1977

CHƯƠNG 26

“Tình yêu không biết đến đau khổ.”

C

hiến tranh xảy ra với Pakistan năm 1971 và sự thành lập Bangladesh đã là một trải nghiệm bi thảm cho tiểu lục địa. Krishnaji, khi gặp chúng tôi năm 1972, đã nói về chiến tranh bằng sự lo ngại sâu sắc. Anh hỏi chúng tôi tại sao chúng tôi không phản đối mạnh mẽ chống lại chiến tranh, mà là hành động cuối cùng của bạo lực; dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, chiến tranh không thể được khuyến khích. Chúng ta cố gắng giải thích sự hiện diện của 10 triệu người tỵ nạn trên mảnh đất Ấn độ, áp lực bị sinh ra, và những vấn đề có sẵn trong tình huống. Nhưng Krishnaji sẽ không nao núng rời khỏi vị trí của anh.

 Tại những bàn luận nhỏ và những nói chuyện của anh, chúng tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ và sự sử dụng những từ ngữ của anh đã thay đổi. Anh đang thâm nhập nghĩa lý gốc của từ ngữ, đang rút ra những phân biệt rõ ràng giữa bộ não, cái trí, và ý thức. Tại một trong những nói chuyện của anh ở Delhi, anh nói rằng những tế bào não đã bị quy định suốt hàng ngàn năm, và rằng nếu không có một phá vỡ trong tình trạng bị quy định đó thảm họa là điều không thể tránh khỏi. “Thế giới đang rực cháy. Liệu bộ não, toàn cấu trúc của con người, có thể trải qua một cách mạng vĩ đại, một thay đổi lạ thường? Liệu có thể có một sống tổng thể thay vì sống phân chia?”

 Có một buồn bã lạ thường trong Krishnaji. Ngày 19 tháng mười một ở New Delhi, anh nói, “Đó là một trong những đau khổ vô cùng trong thế giới khi người ta muốn chuyển tải cái gì đó lạ thường bằng quả tim và cái trí của người ta và bạn không thâu nhận nó. Đó là sự đau khổ không chỉ cho người nói nhưng còn cả cho bạn, người lắng nghe.” Nhận biết được bạo lực đang gia tăng trong tương lai, Krishnaji nói về con người như đang bị trói buộc trong hành lang của những đối nghịch – hận thù và tình yêu, bạo lực và không-bạo lực. Nhưng sự thật ở trong “cái gì là,” mà là bạo lực. Anh tìm hiểu sự suy nghĩ và cấu trúc của nó; suy nghĩquá khứ như ký ức, suy nghĩthời gian.

 “Bây giờ liệu cái trí, chính những tế bào não mà là sản phẩm của thời gian như sự tiến hóa có thể – liệu chính những tế bào não và toàn cái trí, mà là thân thể, chuyển động của ham muốn, chuyển động bạn biết như suy nghĩ, toàn sự việc – có thể hoàn toàn yên lặng? Và nó chỉ có thể yên lặng khi bạn đã hiểu rõ giá trị của sự suy nghĩ nơi nó quan trọng và nơi nó không quan trọng. Nếu không hiểu rõ cấu trúc và bản chất của sự suy nghĩ, bạn sẽ không bắt gặp yên lặng này một cách tự nhiên.

 “Và yên lặng là cần thiết. Khi bạn nhìn ngắm một đám mây và vẻ đẹp của ánh sáng trong đám mây đó, nếu cái trí của bạn đang huyên thuyên, đang lang thang, đang phỏng đoán, đang diễn đạt thành từ ngữ, nó không thể thấy vẻ đẹp của đám mây. Cái trí phải yên lặng và nó sẽ yên lặng khi bạn đã phủ nhận hay gạt bỏ sự kiểm soát, uy quyền; tất cả những sự việc mà con người đã sắp xếp vào chung với mục đích tìm được sự thật hay sự khai sáng, những sự việc mà là những giả tạo của con người, vì vậy bị trói buộc trong thời gian. Và muốn tìm được cái đó mà không-thời gian, không-đo lường, không-tên tuổi, cái trí phải hoàn toàn yên lặng. Điều đó có nghĩa liệu bộ não đó có thể – làm ơn theo sát điều này – liệu bộ não mà đòi hỏi sự an toàn tuyệt đối, ngược lại nó không thể vận hành một cách tự do, hiệu quả – liệu bộ não đó có thể hoàn toàn được an toàn, để cho nó có thể vận hành không-xung đột?

 “Khi bạn thấy điều đó, vậy là có sự rõ ràng trong quan sáthọc hành, mà là hành động của thông minh. Trong quan sát cái giả dối những tế bào não trở nên yên lặng, và cùng nó, một cách tự nhiên, dễ dàng, êm ả – không có bất kỳ nỗ lực – cái trí được yên lặng lạ thường. Và trong yên lặng đó của cái trí không có thời gian. Nó không là một câu hỏi của, ‘Liệu cái trí có thể nuôi dưỡng hay duy trì hay tiếp tục trong yên lặng đó?’ Câu hỏi đó là một ham muốn của sự suy nghĩ, mà muốn theo đuổi yên lặng đó như vui thú.

 “Trong yên lặng đó không có người quan sát, không trải nghiệm, nhưng chỉ chất lượng của yên lặng tổng thể và tuyệt đối đó. Trong yên lặng đó cánh cửa mở toang. Cái vượt khỏi cánh cửa là không thể diễn tả được, nó không thể diễn đạt thành những từ ngữ.”

 Mùa hè năm 1971 tôi ở Mỹ. Sau khi công việc chính thức của tôi chấm dứt, tôi trải qua kỳ nghỉ cùng con gái tôi ở California. Cháu sẽ kể cho tôi về một bài giảng rất lạ thường mà cháu đã nghe được ở Toronto. Diễn giả là Ivan Illich. Ông đã được phong chức vào giáo phẩm dòng Tên và đã sống nhiều năm ở Nam Phi. Nhưng khác biệt đã nảy sinh giữa ông và giáo hội ở Rome và sau nhiều khó khăn ông đã từ bỏ giới giáo sĩ dòng Tên và bắt đầu sống ở Mexico tại Cuernavaca. Tại đó, như ông sẽ giải thích sau đó ở Ấn độ, ông thành lập một trung tâm, một không gian trống không nơi con người có thể gặp gỡ.

 Bài giảng ở Toronto của ông nói về “Xã hội phản giáo dục,” và Radhika đưa cho tôi một bản sao của quyển sách. Nguồn gốc và mãnh liệt của nó gây kinh ngạc cho tôi, và khi quay lại Ấn độ tôi đưa quyển sách cho Indira Gandhi. Bà đọc quyển sách, nghĩ rằng nó liên quan đến hoàn cảnh của Ấn độ, và sắp xếp để mời Illich đến Ấn độ. Sau này ông sẽ kể với tôi rằng ông do dự trước khi đáp lại một lời mời của chính phủ, nhưng cuối cùng đã đồng ý. Chúng tôi có một người bạn chung, Dorothy Norman, và ông đưa cho tôi một lá thư giới thiệu từ cô ấy.

 Illich đến dùng bữa tối tại nhà tôi ở Delhi vào cuối mùa thu năm 1972. Ông có một hiện diện lạ thường và tôi háo hức phản ứng lại sự thách thức của những từ ngữ của ông. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã thiết lập được một hòa hợptrở thành bạn bè. Indira Gandhi yêu cầu tôi sắp xếp những chương trình của ông và tôi đã đề nghị rằng ông nên viếng thăm Rajghat và gặp Krishnaji.

 Ngày 27 tháng mười một, Ivan Illich đến Rajghat. Ông đang ở trong căn phòng của nhà khách; con sông Ganga hoành tráng phía trước. Ông dùng cơm cùng Krishnaji và gặp gỡ đầu tiên giữa hai nguời diễn ra vào buổi chiều. Đó là một gặp gỡ có ảnh hưởng sâu sắc của hai cái trí; Krishnaji với một cái trí quan sát, sinh động, nhận biết, và Ivan Illich, uyên bác, lý luận, bám rễ trong những truyền thống tinh túy nhất của suy nghĩ phương Tây, tuy nhiên lại sẵn sàng lắng nghe. Con sông Ganga lắng nghe đối thoại như qua hàng thế kỷ nó đã lắng nghe âm thanh của những tiếng nói đang chất vấn, đang lắng nghe và đang đặt câu hỏi ngược lại.

 Mặc dù những cái trí của Krishnaji và Illich trôi chảy như hai dòng suối riêng biệt, chúng lại hội tụ trong đam mê chung của chúng về những thay đổi và sự cấp bách phải làm tự do con người khỏi ảo tưởng.

 Tôi giới thiệu Illich với Krishnaji, và kể về sự phê bình của ông về xã hội hiện đại và sự quan tâm của ông đến việc tái cấu trúc xã hội lẫn những công cụ của nó. Krishnaji và Illich bàn luận về sự hỗn loạnsuy đồi của giáo dục hiện nay trong thế giới. Illich nói về sự quan tâm của ông đến việc giải thoát cá thể khỏi những ảo tưởng về điều gì anh ấy đã chịu ơn của xã hội. Krishnaji lắng nghe, cố gắng hiệp thông cùng người đàn ông đằng sau những từ ngữ. Nhận biết rằng những cái trí không đang gặp gỡ, Krishnaji chỉ về hướng con sông. “Kia kìa sông Ganga. Nó đang chảy và tất cả con người đang bị cuốn theo dòng chảy – chắc chắn cá thể là một người thoát khỏi dòng chảy. Từ ngữ ‘cá thể’ có nghĩa một nguời không bị phân chia, một người tổng thể – không bị tách rời.”

 Con sông sẽ trở thành một ẩn dụ thay thế, mà đối thoại chuyển động quanh nó; những tiếng nói đang hòa hợp và đang tách rời.

 Illich cũng đang cố gắng thiết lập sự hiệp thông và dò dẫm vào sự liên hệ mới mẻ. Ông nói ông đã dành ra nhiều tiếng đồng hồ trên bờ sông, nhìn ngắm những con người đang tắm rửa, đang cầu nguyện, đang sống trong cùng con sông, phía dưới ghats những nơi hỏa táng. Ông đã chứng kiến những con người ra khỏi con sông và ngồi yên lặng trên hai bờ của nó và đã cảm thấy sự cam chịu nảy ra phía bên trong họ, một chấp nhận rằng con sông sẽ mang họ đi khỏi, một ngày. Ông trầm ngâm về xã hội công nghệ hiện đạiẤn độ đang từ từ trở thành một nô lệ cho nó và thế là đang mất dần hiệp thông cùng sự sống, và cảm thấy đang lan rộng trong thế giới rằng công nghệ có thể sáng chế lại một kênh mới cho con sông.

 “Nhưng con sông không thể sáng chế lại,” Krishnaji nói. “Liệu nó sẽ không là cùng con sông? Chỉ có một hành động cho con người thoát khỏi dòng chảy, không bao giờ trở lại hay sáng chế một dòng chảy khác.” Trả lời của Illich là trích dẫn một bài thơ từ Mexico được viết theo kiểu Navajo, hàng đầu tiên đang được lặp lại và được suy ngẫm:

Chỉ một thời gian ngắn ngủi ngài đã cho chúng con vay mượn lẫn nhau.

Bởi vì nhờ vào nét vẽ của ngài mà chúng con được định hình.

Nhờ vào mô tả của ngài mà chúng con có hình dạng.

Nhờ ngài hát cho chúng con nghe nên chúng con nhận được tiếng nói.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi, ngài đã cho chúng con vay mượn lẫn nhau.

Bởi vì ngay cả khi những đường nét được vẽ ra trong đá pha lê tan biến

và khi màu xanh lá cây những sợi lông Quetzalcoatal phai lạt

và khi thác nước lặng xuống suốt mùa hè – vậy là chúng con cũng tan biến.

Chỉ một thời gian ngắn ngủi khi ngài cho chúng con vay mượn lẫn nhau.

Trên hai bờ sông Ganga, Illich đã chứng kiến một khẳng định của sự sống mà ông cảm thấy có thể được tái tạo trong những điều kiện hiện đại. Ông đã nhận biết được trọng lượng và chiều sâu và tình trạng bén rễ của một văn minh mà con sông này là một biểu tượng.

Trong Illich, có một đau khổ vô cùng bởi vì sự mất mát của những truyền thống cổ xưa. Con người hiện đại, con người công nghiệp, mà những giá trị của họ đã được thể chế hóa, cảm thấy rằng ông có thể dẫn dắt con người thoát khỏi dòng chảy cũ kỹ và đưa họ vào một dòng chảy mới mẻ. Nhưng dòng chảy mà ông đã hy vọng đưa con người vào lại là một dòng chảy không sự sống. Đó là một ảo tưởngtrừu tượng. Đó lại là một thoái hóa vô cùng. Ông nói về giáo dục hiện đạicố gắng sáng chế một ý thức mới mẻ, sự ảo tưởng rằng bạn có thể thoát khỏi con sông của truyền thống, để tạo ra một loại dòng chảy mới mẻ; một dòng chảy mà sẽ tạo ra một nhân loại mới mẻ.

Đối với Krishnaji, con sông tượng trưng cho tất cả truyền thống, hiện đại cũng như cổ xưa. Đối với anh, những truyền thống, dù cao quý, dù cổ xưa, đều quy định con người. “Nếu tôi có một người con trai, bởi vì tôi cảm thấy chúng là những đứa con của tôi dù ở Anh, ở Pháp, hay ở đây, tôi sẽ cảm thấytrách nhiệm phải giúp đỡ chúng thoát khỏi hai dòng chảy này hay hai dòng chảy có vẻ đang chảy song song cùng nhau.” Anh hỏi, liệu những người trẻ không cần thiết phải được tự do khỏi tất cả những dòng chảy?

Krishnaji và Illich cùng chia sẻ ý tưởng rằng từ bicốt lõi và rằng nó không đòi hỏi con người phải thay đổi thành “cái này hay cái kia.” Illich nhận biết tình trạng bám rễ của những người đàn bà Ấn độ và bình phẩm về nó, và sự nguy hiểm của mất đi sự tiếp xúc cùng truyền thống và sự sống. Ông cảm thấy biết ơn cho những gốc rễ riêng của ông trong những truyền thống nào đó. Ông không muốn buông bỏ sự trợ giúp vô cùng và sự kỷ luật quan trọng mà những truyền thống thỉnh thoảng trao tặng.

Tuy nhiên, đối với Krishnaji, tất cả kỷ luật, kiểm soát đều là bạo lực. Chỉ khi nào con người cảm thấytrách nhiệm thì anh ấy mới được tự do, từ bi. Tự dotừ bi là cùng một sự việc. “Suốt năm mươi năm qua chúng ta đã cố gắng để thấy liệu một ít người có thể vượt khỏi dòng chảy, vượt khỏi mà không có động cơ.” Anh nói về học hành như nhân tố cốt lõi cho giải thoát khỏi cái trí, một học hànhsáng tạo động lượng riêng của nó.

Dọc theo bờ sông, một con chó bắt đầu sủa vang và những âm thanh thế giới bên ngoài của Varanasi đi vào căn phòng.

Krishnaji khai triển đề mục từ bi. Anh hỏi Illich liệu ông thấy rằng tự dotừ biý thức của không-lệ thuộc theo cùng nhau. Illich trả lời có, bởi vì lệ thuộc trao tặng con người cảm giác của uy quyền; không-lệ thuộc có nghĩa không-uy quyền. Krishnaji cảm thấy rằng lệ thuộc trao tặng con người ý thức của đang thay đổi, đang sinh sản, đang hành động. “Liệu người ta có thể nói: Hãy để cho tôi không-lệ thuộc, và thấy điều gì xảy ra? Hầu hết mọi người đều là những người Thiên chúa giáo, Phật giáo, Ấn giáo, và truyền thống của điều đó đang hủy diệt họ.” Illich bàn luận khả năng có thể thành lập những vùng đất được vây quanh, những cộng đồng phía bên ngoài dòng chảy; nhưng họ đồng ý rằng theo lịch sử những cộng đồng như thế đã không vận hành. Krishnaji nói về những sự việc khủng khiếp đang diễn ra trong thế giới. Anh hỏi, “Chúng ta có thể làm gì?” Illich cảm thấy rằng có lẽ do bởi những người uy quyền của thế giới sống dựa vào niềm tin trong “những tốt đẹp hơn” – giáo dục tốt đẹp hơn, sức khỏe tốt đẹp hơn. Đối với ông khái niệm của “tốt đẹp hơn” là một lệch lạc của ý thức.

“Bạn thấy, thưa bạn, chúng ta là những con người phiên bản – tất cả hiểu biết là phiên bản. Được tự do khỏi những phiên bản là không-lệ thuộc vào một sự việc – không tích lũy hiểu biết,” Krishnaji nói.

Illich hỏi liệu không-tích lũy hiểu biết có nghĩa trải nghiệm tức khắc. Krishnaji gạt bỏ trải nghiệm. Đối với anh trải nghiệm là nguy hiểm. “Khi cái trí hoàn toàn tỉnh táo, tại sao bạn cần trải nghiệm? Toàn thế giới đều bận tâm để trải nghiệm, để lượm lặt hiểu biết, để quyến luyến phía bên trong dòng chảy và thế là để lệ thuộc.”

Nhưng Illich cảm thấy gắn kết với những dòng chảy bé tí, vô số những truyền thống phong phú đó mà đã trao tặng hình dạng cho sống của con người, những hình dạng mà nếu được cho phép để “trở thành những thần thánh hay những thứ bậc” có thể cũng hủy hoại bằng những dòng chảy hủy hoại khác. Trong ý thức của lệ thuộc đó ông đã sẵn sàng là một con người phiên bản. Ông đã cảm thấy một trách nhiệm phải giúp đỡ con người trở thành then chốt và đã cảm thấy tủi nhục khi khẳng định một bén rễ trong những truyền thống bé tí đó, ngay cả khi nó có nghĩa là con người phiên bản một phần.

“Hãy chờ đã, hãy chờ đã,” Krishnaji nói. “Chúng ta hãy thâm nhập từ từ. Người ta lệ thuộc vào cái gì đó bởi vì, trong chính người ta, người ta bị cô độc, bị sợ hãi. Toàn hiện tượng thuộc tâm lý đang diễn ra phía bên trong làn da, nó khiến cho người ta lệ thuộc vào cái gì đó, dòng chảy lớn lao hay dòng chảy bé tí hay ashram thiền viện mới nhất – đạo sư mới nhất. Bạn theo kịp chứ? Người ta hướng về lại nhà thờ hay Phật giáo hay bất kỳ thứ gì. Chỉ khi nào bạn thấy cái này phía bên trong, bằng rõ ràng, thì bạn mới không lệ thuộc vào bất kỳ thứ gì và thế là bạn khước từ tất cả những sự việc mà con người đã sắp xếp vào chung – hình thành ý tưởng – những công thức – những khái niệm – những niềm tin – bởi vì chúng là tất cả những bộ phận của dòng chảy.

Krishnaji quay về điều gì đối với anh là mấu chốt trọng điểm. “Phải có sự nhận biết đúng đắn. Tôi muốn nói với con người, ‘Hãy nhìn, chỉ nhìn, đừng tranh cãi, đừng diễn giải, đừng nói điều này đúng, điều kia sai. Đừng hỏi tôi sẽ sống ra sao nếu tôi không-lệ thuộc. Chỉ nhìn – có đôi mắt không-thoái hóa trong nó.’ ”

Quan tâm của Illich là chỉ rõ cho con người điều gì họ không thể làm. Đối với Krishnaji biết không làm gì cả, là làm sự việc đúng đắn.

Illich nhận biết điều này tức khắc. Một chuyển động mới mẻ đã bắt đầu. Ông cảm thấytrách nhiệm phải diễn giải trong những thuật ngữ dễ hiểu điều gì họ đang nói chuyện thành sự hiểu biết cụ thể. Đối với Krishnaji, điều đó đến sau. Trước hết phải cần thiết không-lệ thuộc vào bất kỳ xã hội nào, bất kỳ quốc gia nào. Cái trí phải tự-giải thoát chính nó. Nó phải được tự do để nhìn ngắm và tự do đó là hành động.

Krishnaji nói rằng chủ nghĩa quốc gia phân chia con người. Nhưng phản ứng của Illich đối với vấn đề này rất mạnh mẽ. Lại nữa ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có gốc rễ, mà có nghĩa còn nhiều hơn cả bị trói buộc trong chủ nghĩa quốc gia. Krishnaji nói anh cũng có gốc rễ bởi vì anh được sinh ra ở Ấn độ trong vòng tay của Brahmin. Gốc rễ đó – nó có lẽ đã hàng ngàn năm – là tình trạng bị quy định của anh, nhưng chừng nào cái trí còn bị quy định như thế nó không được tự do. Do bởi quá khứ như sự suy nghĩ mà đã phân chia con người ngay tại cốt lõi. Sự suy nghĩhiểu biết. “Nếu tôi muốn sống cùng bạn trong hòa bình, suy nghĩ phải chấm dứt. Những sự việc mà trong tôi có gốc rễ, ngăn cản sự liên hệ của tôi với bạn.”

Đối với Krishnaji, quan sát mà không có sự giới thiệu của suy nghĩcốt lõi; điều đó, một mình nó, là hành động tổng thể. Illich nói ông đã bắt đầu hiểu rõ. Vấn đề là sự khác biệt của ngôn ngữ. Nhưng đối với ông sự nguy hiểm là rằng thế hệ trẻ hơn đã mất đi khả năng nhận biết và phủ nhận cái giả dối.

Tóm tắt chủ đề của bàn luậntrả lời sự quan tâm đến gốc rễ của Illich, Krishnaji nói, “Khi tôi thoát khỏi dòng chảy, tôi không bị phân chia – không mâu thuẫn – tôi là tổng thể – tổng thể không có gốc rễ.”

Tuy nhiên, Illich cảm thấy nhu cầu mãnh liệt phải có gốc rễ, anh không sẵn sàng buông bỏ nó.

Krishnaji cảm thấy rằng nếu không có một đáp án của nghi vấn trọng điểm này, không thể có nở hoa của con người. Nở hoa phải xảy ra. Illich cảm thấy chẳng có hy vọng bao nhiều để giải quyết được nghi vấn trọng điểm. Ông sẵn sàng chấp nhận và sống và chết cùng cái gì đó không-hoàn hảo. Krishnaji và Illich đã đến một mấu chốt gây phân chia hai người.

Đối với Krishnaji, trả lời của Illich không hoàn chỉnh lắm. Bỗng nhiên, anh bắt đầu nói về nghi vấn trọng điểm như một kết thúc cho đau khổ. Anh không thể hình dung “sống” như được dành cho đau khổ liên tục.

Đối với Illich, đau khổ phải được chấp nhận. “Tại sao?” Krishnaji hỏi, “Những con người phải đau khổ thuộc tâm lý hay sao?”

“Bởi vì Thượng đế đã đồng ý nó,” Illich nói.

Krishnaji rất tàn nhẫn trong sự tìm hiểu của anh. “Tại sao con người phải đau khổ?” Đối với con người khi chấp nhận đau khổ thuộc tâm lýbản thể của sự dốt nát của anh ấy. Tại sao những con người phải bị đau khổ? Bởi vì họ dốt nát? Bởi vì họ xung đột? Bởi vì họ mâu thuẫn trong chính họ?

Illich cũng sôi nổi như thế. Ông nói rằng ông tin tưởng đau khổquy định của con người.

“A, đó là như thế,” Krishnaji nói.

Illich cảm thấy sự cần thiết phải công nhận tình trạng bị quy định của ông một cách đầy đủ, rõ ràng, nhạy cảm, và bị định hình bởi tình trạng bị quy định này. Nhưng Krishnaji chối từ chấp nhận đau khổ đó là cần thiết cho bị quy định của con người.

Hai cái trí đối diện nhau. Illich hỏi, “Vậy thì từ bi có nghĩa gì?”

Giống như một luồng nước câu trả lời nảy ra, “Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả; tình yêu, thưa bạn, không bị đau khổ.”

Họ chia tay. Khi chúng tôi đi bộ đến phòng của ông, Illich ngắt một bông hoa nhài và đưa cho tôi. Nó là một cử chỉ tao nhã. Ngày hôm sau ông sẽ gặp lại Krishnaji, nhưng tôi không có mặt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10199)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11256)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13594)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13747)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22224)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11742)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23297)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28599)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22782)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25727)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22316)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14004)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13443)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22492)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26403)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18493)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18970)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34528)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27398)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21400)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19224)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10623)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18582)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15668)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14031)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11635)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11347)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11905)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19952)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12401)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13277)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31997)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13445)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21876)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11099)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant