Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. “Tôi và em tôi là một”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8829)
06. “Tôi và em tôi là một”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

CHƯƠNG 6

“Tôi và em tôi là một

M

rs. Besant tham gia vào bối cảnh chính trị ở Ấn độ năm 1913, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến Thứ nhất. Dưới sự hướng dẫn và những phước lành của Rishi Agastya (người, theo Tổ chức Thông thái, có trách nhiệm đặc biệt trong Thứ bậc Huyền bí về Số mạng của Ấn độ), bà được quăng vào trung tâm của sự sôi sục chính trị đang hừng hực.

 Bà đã nổi tiếng khắp quốc gia rồi. Được biết đến về khả năng diễn thuyết sáng chói của bà, bà được công nhận như một người giáo dục của trật tự tột đỉnh và được khâm phục về sự can đảm của bà như một người đổi mới xã hội. Bởi vì sự quan tâm của bà đến những giá trị mới mẻ, và cùng sự tự hào vô bờ bến của bà trong tư tưởngvăn hóa của Ấn độ, sự tham gia vào chính trị của bà được hoan nghênh bởi nhiều bạn bè trí thức và những người khâm phục bà. Cùng với tính khí của bà chắc chắn rằng bà sẽ đam mê chính trị nhiều lắm. Chẳng mấy chốc bà không còn liên quan với Thứ bậc Huyền bí nữa; những thấu triệt vào thiêng liêng của bà và những khả năng tâm linh của bà bắt đầu suy yếu, và bà phải phụ thuộc vào C. W. Leadbeater để nhận được những thông điệp từ thế giới huyền bí của những Bậc Thầy.

 Năm 1925, cùng tuổi già đang gia tăng, những khả năng thuộc tinh thần của bà bắt đầu suy giảm và kèm theo nó sự kiểm soát kiểu bàn tay sắt của bà về những công việc của Tổ chức Thông thái. Những mưu mô và những tính toán để có được quyền hành đối với bà và vì vậy đối với Tổ chức đang đạt đến đỉnh điểm. Nhận biết được sự thất bại của bà trong công việc làm thức dậy lại kundalini shakti chakras (hay sáu trung tâm của năng lực tâm linh đang ngủ yên được đặt dọc theo cột sống) và những thèm khát của bà để tiếp tục có lại sự tiếp xúc với những Mahatma, nhiều người quen biết của bà quả quyết có những quyền năng tiên tri và khả năng tiếp nhận được những chỉ dẫn từ những Bậc Thầy. Học đòi sự huyền bí, khẳng định đã đánh thức con rắn kundalini, tìm kiếm quyền lực và buông thả tự do trong ảo tưởng, thường thường liên kết điều gì không phù hợp với lược đồ của những sự việc sự vật của họ như bắt nguồn từ những thế lực đen tối, những hành động của những thành viên thâm niên của nó sẽ tạo ra một giễu cợt về Tổ chức Thông thái.

 Ở Sydney, Úc, Leadbeater, bọc trong những cái áo choàng màu tím cùng cái thánh giá nạm đá quý và cây gậy phép của chức Giám mục và năng lượng cho sự hiện ra của chủng tộc gốc thứ sáu[11]. Vây quanh ông bởi những cậu trai và cô gái nhỏ tuổi là những môn đệ được chọn lựa của ông, những quyền năng huyền bí của ông và những ứng dụng của chúng đã đạt đến những mức độ kỳ quái. Ông đang hấp dẫn những nữ trang cho những nàng tiên trong National Park ở Sydney, để bù đắp lại sự cho phép đưa vài nàng tiên về lại “The Manor” “Trang viên,” nơi ông và những môn đệ sống. Để gia tăng những nguồn huyền bí của ông, trong khi đang qua phà ở hải cảng Sydney, Leadbeater khẳng định đang tạo ra những mạng lưới không nhìn thấy được mà ông giăng bắt những nàng tiên nước từ biển cả; mà đính kết họ vào hào quang của ông, ông gởi họ ra ngoài theo nhu cầu để cứu giúp những người đang bị đau khổ.

 Ở Châu âu, George Arundale và Wedgwood khẳng định đã thiết lập một kênh giao tiếp trực tiếp với Thứ bậc Huyền bí và đã được chấp thuận là những môn đệ bởi Mahacholan. Bầu không khí tràn đầy hứng khởi khi nhiều người khai trí mới được công bố bởi Mrs. Besant sau khi được thông qua bởi Arundale.

 Bởi vì đã được phong chức Giám mục của Liberal Catholic Church, Arundale và Wedgwood “bọc màu tím” liên tiếp đạt được rất mau lẹ Arhathood bằng cách vượt qua những khai trí thứ ba và thứ tư của họ. Người vợ của Arundale, Rukmini,[12] vượt qua ba giai đoạn khai trí trong ba ngày. Mrs. Besant và Leadbeater đã là những Arhat rồi, đã vượt qua khai trí thứ tư. Krishnamurti, ở Ojai đang chăm sóc Nitya người em trai bệnh nặng của anh, không nhận biết được sự sôi sục huyền bí đang diễn ra ở Huizen, Netherlands và sau đó ở Star Camp, Ommen, một hội nghị hàng năm được tham dự bởi những thành viên của The Order of The Star. Không có sự công nhận của anh, một công bố được thực hiện rằng thân thể tinh thần của anh từ Ojai và thân thể tinh thần của Jinarajadasa từ Adyar đã đi đến và hiện ra trước sự tề tựu trang nghiêm của những người trong Thứ bậc Huyền bí để nhận được những ban phước lành của hai người trong chuyến hành trình của họ qua sự khai trí thứ tư. Sau đó khi trại bế mạc, Mrs. Besant ở Huizen đã mời Lady Emily, Miss Bright, và Shiva Rao đến phòng của bà và nói cho họ rằng bà và Leadbeater, Krishnaji, Arundale, và Wedgwood đã vượt qua sự khai trí thứ năm và cuối cùng của họ. Bây giờ tất cả họ không chỉ là những Arhat nhưng còn là những Adept, và vì vậy được giải thoát khỏi nghiệp lực và sinh lại.

 Một bài tường thuật in trong tạp chí của Tổ chức Herald of the Star cho sự hiểu biết nào đó về trại Ommen, nơi những tin tức quan trọng này được công bố bởi Mrs. Besant. Dưới đầu đề “Bởi lệnh của Vua,” tờ Herald xuất bản những từ ngữ của Mrs. Besant:

 Thầy Thế giới mới sẽ chọn, như trước đây, 12 Môn đệ của Ngài. Tôi chỉ có sự yêu cầu đề cập bảy người đã đến bậc Arhatship…Hai người đầu, người anh của tôi Charles Leadbeater, và tôi, đã vượt qua mức khai trí vĩ đại tại cùng thời gian. Những Arhat khác là, C. Jinarajadasa, George Arundale, mà sự phong chức của ông như Giám mục là cần thiết, để là bước cuối cùng của sự chuẩn bị của ông cho bậc thứ tư quan trọng của sự khai trí. Oscar Kollerstron, Mrs. Rukmini Arundale, Krishnaji, và Giám mục Wedgwood .

Sau đó, vì nhận ra rằng bà đã gây ra một lỗi lầm nghiêm trọng khi gồm cả danh tánh của Krishnamurti, mà là phương tiện, trong danh sách của những Môn đệ, bà sửa chữa sự tuyên bố của bà. Những danh sách khác nhau đã tồn tại trong đó được bao gồm danh tánh của Lady Emily, Nitya, Rajagopal, và Theodore St. John, một người được bảo trợ mười lăm tuổi có mái tóc vàng của Leadbeater.

Sau đó, Mrs. Besant tiếp tục công bố ba mục đích hoạt động mà Tổ chức sẽ tuân theo trong tương lai. Một tôn giáo thế giới mới mẻ phải được thành lập, với Mrs. Besant như người đứng đầu. Một trường đại học thế giới mới mẻ phải được thành lập với Mrs. Besant như hiệu trưởng. Arundale như người ủy nhiệm, và Wedgwood người quản lý – bởi vì, theo Mrs. Besant, “ông ấy biết cả hai mặt – thông thường và huyền bí.” Bà tiếp tục nói rằng “các bạn không nên phản đối họ bởi vì họ là bộ phận thuộc công việc của Vua.” Trong khi đó Arundale, khẳng định khả năng tiên tri, nói:

Tôi nghĩ không ai trong thế giới mà có một khả năng quá lạ thường, quá cao quý về tự-quên bẵng cái tôi, như người em của tôi Nitya có. Cái cách em mất mình trong người anh của em là một trong những sự việc phi thường nhất mà tôi đã từng thấy. Và tôi muốn các bạn ghi nhớ điều gì tôi đang nói hôm nay, bởi vì tôi mạo muội bày tỏ nó trong khả năng tiên tri. Tôi nghĩ rằng khi những năm tháng trôi qua, chúng ta sẽ không những thấy Krishnamurti theo một sống mà em ấy rất hiến dâng, nhưng chúng ta cũng thấy bên tay phải của em là người em vĩ đại của em được công nhận khắp thế giới như một trong những người lãnh đạo chính trị xuất sắc nhất.

 Nitya chết bốn tháng sau khi những điều này được công bố.

 Trong khi đó, bệnh tật của Nitya đã đến giai đoạn trầm trọng hơn. Arundale đã giao cho Rajagopal, người có mặt tại trại và đã được phong chức Trợ tế của Liberal Catholic Church, một lá bùa hộ mạng để mang đến đưa cho Nitya, đã được hấp lực đặc biệt bởi Mahachohan. Những Đấng Vĩ đại của Thứ bậc đã tuyên bố rằng Nitya sẽ sống và là một trong những cột trụ chính cho công việc của Thầy Thế giới. Theo Arundale, “Sống của Nitya là ân huệ của Krishna khi trở thành một Arhat.”

 Krishna, khi nghe những tường thuật về những Môn đệ và những Arhat, những khai trí mau lẹ, thế giới tôn giáo và những trường đại học thế giới, bị bối rốiđau khổ nhiều lắm. Để lại Nitya dưới sự bảo vệ của những Bậc Thầy, anh khởi hành đến Châu âu với Rajagopal. Lady Emily, người đã có mặt tại trại và chính bà đã trải qua sự khai trí thứ hai, đã đến đón anh tại bến tầu. Krishnamurti nói với bà, quan điểm của anh về chuyện đó là không thể hiểu được. Anh chối từ chấp nhận những khai trí hay những Môn đệ. Anh ngờ vực rất nhiều về tôn giáo thế giới và trường đại học thế giới. Anh không muốn gây tổn thương Mrs. Besant trong tuổi già của bà, và vì vậy kiềm chế không tuyên bố công khai sự phản đối của anh; nhưng anh chuyển tải những nghi ngờ của anh đối với bà.

 Mrs. Besant bị tan nát bởi sự phủ nhận của anh về những khai trí, những Môn đệ, tôn giáo thế giới, và trường đại học thế giới. Tinh thần của bà bắt đầu bị suy sụp rất mau lẹ. “Bà biểu hiện những dấu hiệu của lão suy, mất trí nhớ và một khuynh hướng tập trung vào quá khứ.” Nhưng trong bất kỳ cách nào, điều này không cướp đi những hoạt động của bà hay sự tận tụy hoàn toàn của bà cho Krishnamurti như Thầy Thế giới.

 Đầu tháng mười một năm 1925 Mrs. Besant, Krishnaji, Rajagopal, Rosalind, Wedgwood, Shiva Rao, và Rukmini và George Arundale đi đến Ấn độ để tham dự những lễ kỷ niệm đặc biệt Toàn xá được tổ chức ở Adyar. Sự trung thành nơi những Bậc Thầy của Krishnamurti và sự cam đoan của họ về sức khỏe của Nitya là không phải ngờ vực. Đầu năm 1925, trong khi ở Adyar, Nitya đã bị bệnh nặng lắm. Ngày 10 tháng hai năm 1925, Krishnamurti viết một lá thư cho Mrs. Besant diễn tả một giấc mơ trong đó anh viếng thăm Huynh đệ Vĩ đại và van xin họ cho nguời em của anh được sống khỏe mạnh:

 Theo giấc mơ của con, con nhớ lại đã đi đến nhà của Thầy và năn nỉvan xin cho Nitya được khỏe mạnh lại và cho em được sống. Thầy nói rằng con phải đến gặp Chúa Maitreya và con đến đó và con cầu khẩn ở đó, nhưng con có ấn tượng rằng đó không là công việc của Ngài và rằng con nên đến gặp Mahachohan. Thế là, con đi đến đó. Con nhớ tất cả việc này rất rõ ràng. Ngài được dìu đến cái ghế của Ngài, bằng sự cao cả vô cùng & sự hiểu rõ lạ thường, cùng đôi mắt nhân từnghiêm trang. Sự diễn tả thừa thãi của con là quá vô lý, nhưng, nó không thể chuyển tải ấn tượng to tát về tất cả việc này. Con thưa với Ngài rằng con sẽ hy sinh hạnh phúc của con hay bất kỳ việc gì được đòi hỏi để cho phép Nitya sống, bởi vì con cảm giác việc này đang được quyết định. Ngài lắng nghe con và trả lời “Em ấy sẽ khỏe.” Thật khuây khỏa rằng tất cả lo lắng của con hoàn toàn được tan biến và con sung sướng vô ngần.

 Nói về sự chuẩn bị riêng của con, con không biết điều gì đã được quyết định nhưng con sẵn sàng làm bất kỳ việc gì. Công việc tiến triển rất tồi tệ và con đang cảm thấy rất mệt mỏi và khá yếu ớt, nhưng không thể giúp được gì cả.

 Cám ơn Thượng đế, mẹ sẽ ở đây, người mẹ riêng của con & con yêu mẹ, bằng tất cả quả tim và tâm hồn của con.

 Krishna của mẹ.

Sự gặp gỡ trực tiếp này với những Bậc Thầy đã thuyết phục Krishnaji về những quyền năng của những Đấng Vĩ đại để kéo dài sống của Nitya. Nếu chúng ta ngừng lại một chốc lát để tìm hiểu sự tiếp xúc của Krishnaji với những Bậc Thầy, những hiện thân của họ, và sự giao tiếp với họ của Krishnaji, nó trở nên rõ ràng rằng sự gặp gỡ của anh với Thầy K. H., Mahachohan, Maitreya, và Buddha là ảo tưởng, thường trong trạng thái giấc mộng. Điều này đã xảy ra như thế khi anh còn là một cậu trai trẻ; với ý thức nhạy cảm của anh được định hướng về những hình dạng thuộc suy nghĩhình tượng bí truyền của Leadbeater, một cách tự nhiên anh thấy những Bậc Thầy trong những hình bóng tương tự được vẽ lên tranh trong Khu Huyền bí của Tổ chức Thông thái. Chính là như thế khi anh diễn tả những gặp gỡ của anh với Thầy K. H. trong những lá thư đầu tiên gởi đến Mrs. Besant của anh, và những dấu vết của nó sẽ được tìm thấy trong tiến trình ở Ojai, mặc dù trước lúc đó anh đã được tự do khỏi những ảo tưởng, những hiện thân thuộc vật chất, và những hình tượng nhìn bằng mắt. Trong những năm đầu tiên, không có sự phân chia rạch ròi được tồn tại thực sự cho Krishnaji giữa trạng thái mơ mộngtrạng thái thức giấc. Đối với anh, những ảo tưởng, những giấc mơ và những hiện thân thực sự của những hình dạng thuộc suy nghĩ dường như có cùng thực tế. Sau đó, anh nói rằng tất cả những hình ảnh và những hiện thân, dù sâu đậm đến chừng nào, đều là những chiếu rọi của cái trí. Cùng cái chết của Nitya và sự đau khổ bùng nổ mà đưa anh mặt đối mặt với thực tế, tất cả những liên hệ thuộc vật chất với những Bậc Thầy đều kết thúc.

Thậm chí trước khi đó, trên boong tầu quay về Ấn độ, Arundale bắt đầu tiếp nhận và chuyển đi những thông điệp từ Mahachohan khiển trách Krishnamurti về sự nghi ngờ của anh và tinh tế gợi ý rằng nếu anh không chấp nhận những tiết lộ khai sáng được tiếp nhận và chuyển đi bởi Arundale tại Huizen và Ommen, và khẳng định danh tánh của những người đã được khai trí thành Adept, Nitya sẽ chết. Krishnamurti khước từ.

Trong khi đang ở Suez Canal, Krishnaji nhận được một điện tín từ Nitya nói rằng em đã nhiễm phải bệnh cúm. Ngày hôm sau, một điện tín khác được nhận trong đó Nitya nói rằng, “Cúm trầm trọng hơn nhiều. Cầu nguyện cho em.” Krishnamurti, sự trung thành không bị lay chuyển, nói với Shiva Rao rằng những Bậc Thầy đã không cho phép anh rời khỏi Ojai nếu số mạng của em anh phải chết. Vào ngày 13 tháng mười một, giữa một cơn bão sấm sét, họ nhận được một điện tín báo rằng Nitya đã chết.

Shiva Rao, người đang ở cùng cabin với Krishnamurti, đã kể một câu chuyện sinh động về việc gì tiếp theo:

 Mrs. Besant yêu cầu tôi đưa bà đến cabin của Krishnamurti. Bà đi vào trong một mình, để nói chuyện với anh. Tin đó làm anh sụp đổ hoàn toàn: nó còn tác động nhiều hơn thế, như chính tôi đã thấy trong suốt phần còn lại của chuyến hành trình. Toàn triết lý về sống của anh – sự trung thành tuyệt đối trong tương lai như được phác thảo bởi Mrs. Besant và Mr. Leadbeater, sự tham dự tất yếu của Nitya trong nó, đã bị tan nát tại khoảnh khắc đó. Khi đêm tới, anh sẽ sụt sùi và than thở và khóc lóc thảm thiết về Nitya, thỉnh thoảng bằng ngôn ngữ Telugu, mà trong ý thức tỉnh táo của anh, anh không thể nói. Ngày qua ngày, dường như anh đã thay đổi, kiểm soát anh vững vàng trong một nỗ lực để đối diện sống – nhưng không còn Nitya.

Krishna và Nitya đã cùng nhau chia sẻ sự cô đơn của họ trong một thế giới xa lạ; cùng nhau cười đùa; cùng nhau kể những câu chuyện hài hước; cùng nhau đi – cùng nhau đặt kế hoạch cho sống và công việc tương lai của họ.[13] Viết sau cái chết của người em, Krishnaji sẽ nói, “Một giấc mộng cũ đã chết rồi và một giấc mộng mới đang được sinh ra. Một tầm nhìn mới đang được hiện diện và một ý thức mới đang được bộc lộ – tôi đã khóc, nhưng tôi không muốn những người khác phải khóc; nhưng, nếu họ khóc, tôi biết nó có nghĩa gì. Lúc này, tôi biết, bây giờ chúng tôi không tách rời. Em và tôi sẽ cùng nhau làm việc, bởi vì tôi và người em của tôi là một.”

Trước thời gian Krishnamurti, cùng Dr. Besant, đến Adyar, Krishnamurti đã sống lại từ sự chạm trán bất thình lình cùng đau khổ và có được sự bình thản vô hạn, sự tỏa sáng, và sự tự do khỏi tất cả cảm tính và cảm xúc. Nhưng sự tin tưởng của anh trong những Bậc Thầy và Thứ bậc Huyền bí đã trải qua một cách mạng hoàn toàn. Hiếm khi anh lại nói về những Bậc Thầy trong hình dạng vật chất. Trong những năm sau, khi ngập ngừng nói về thời kỳ này. Krishnamurti chấp nhận rằng có lẽ sự mãnh liệt của đau khổ đã châm ngòi một nhận biết bao la, không còn vướng vào thế gian. Một thông minh đã phải mất nhiều năm dài mới chín chắn, mà đã nằm im lìm không được vận dụng, sẽ vận hành trong khoảnh khắc kịch liệt của đau khổ.[14]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13587)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13733)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22203)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21862)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23272)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22762)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25694)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13988)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13432)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22468)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18470)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34505)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27374)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28419)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21369)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14889)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19198)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10617)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18572)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13180)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14024)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11791)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11340)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11889)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19943)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12394)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31963)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13434)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12756)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13329)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11893)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21862)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11093)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12899)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant