Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. “Nhân cách của Krishnamurti đã được nuốt trọn trong những ngọn lửa.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8952)
07. “Nhân cách của Krishnamurti đã được nuốt trọn trong những ngọn lửa.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

CHƯƠNG 7

 “Nhân cách của Krishnamurti đã được nuốt trọn trong những ngọn lửa.”

T

rước khi hội nghị Jubilee Toàn xá bắt đầu ở Adyar, Mrs. Besant cố gắng giải quyết những căng thẳng giữa Krishnaji và những người thâm niên đứng đầu của Tổ chức Thông thái. Bà đưa Người Thầy trẻ tuổi đến phòng nơi Leadbeater, Jinarajadasa, Arundale, và Wedgwood đã tụ họp, và hỏi K liệu anh sẽ thâu nhận những người đó được tuyển chọn như những Apostle, như những môn đệ của anh. K trả lời rằng anh sẽ chỉ thâu nhận Mrs. Besant.

 Tại Star Congress tiếp theo sau hội nghị Jubilee, K nói chuyện dưới cây bồ đề cổ; mặt trời được tinh lọc qua những cành cây vươn rộng và vô số rễ của nó, biến nó thành một cánh rừng ma thuật của ánh sáng và những cái bóng. Bỗng nhiên, giữa nói chuyện của anh, anh khích động khán giả bằng cách chuyển từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất. Liên quan đến Thầy Thế giới sắp đến anh nói, “Ngài hiện diện chỉ dành cho những người mà mong muốn, mà khao khát, mà ao ước –” và bỗng nhiên sau đó, “Ta đến cho những người mà cần đến sự thông cảm, mà ao ước hạnh phúc, mà đang thiết tha tìm được hạnh phúc trong tất cả mọi sự việc sự vật. Ta đến để đổi mới và không tàn phá, Ta đến không phải để hủy diệt, nhưng để xây dựng.” Nhiều người có mặt cảm thấy âm thanh của giọng nói thay đổi, một sức mạnhquyền năng nằm trong những từ ngữ. Sau đó Mrs. Besant sẽ nói, “Sự kiện đánh dấu sự thánh hóa của phương tiện được chọn lựa.”

 Từ Adyar, Krishnamurti sẽ viếng thăm Varanasi vào tháng hai. Anh sẽ tổ chức những nói chuyện với những nam sinh và nữ sinh của những trường học tại Kamaccha. Anh quay lại và bị sốt nặng bởi ngộ độc thực phẩm. Anh được khuyên nghỉ ngơi và đi thẳng tới Ootacamund. Trong khi đang ở đó anh

 

 Đang thử nghiệm với chính tôi, thoạt đầu không thành công lắm, đang cố gắng khám phá làm thế nào tôi có thể tách khỏi chính tôi và thấy thân thể như nó là. Tôi đã và đang thử nghiệm điều này được hai hay ba ngày – nó có lẽ đã được một tuần lễ – và tôi phát giác rằng qua một khoảng thờì gian nào đó tôi có thể dễ dàng tách khỏi thân thể và nhìn ngắm nó. Tôi đang đứng bên cạnh giường ngủ của tôi, và có thân thể trên giường – một cảm giác lạ thường nhất. Và từ ngày hôm đó đã có một ý thức rõ rệt của sự tách khỏi, của sự phân chia giữa người cai trị và vật được cai trị, để cho thân thể, mặc dù nó có những mong mỏi của nó, những ham muốn của nó để lang thang ra khỏi và sống và tự thụ hưởng một cách tách rời cho chính nó, trong bất kỳ phương cách nào không can thiệp vào Cái Tôi thực sự.

 

 Mùa xuân năm 1926, Mrs. Besant theo cùng Krishnaji trở lại nước Anh. Anh đang suy nghĩ nghiêm túc về việc thực hiện sannyasa,[15] và kể về nó cho một số bạn bè.

Sau đó, tháng bảy, K đi đến Ommen. Mặc dù Mrs. Besant có mặt, chính anh thực hiện những nói chuyện bên cạnh lửa trại tại Ommen. Krishnamurti đang biểu lộ một hân hoan vô cùng và một cảm thấy của chất lượng hòa hợp duy nhất cùng vũ trụ. Những từ ngữ của anh không tuân theo sự giảng dạy của Thông thái chính thống và Wedgwood, người có mặt ở đó, bị rối tung lên. Ông nói nhỏ với Mrs. Besant rằng không phải Chúa Maitreya đang nói qua Krishnamurti, nhưng một người quyền năng nào đó thuộc thế lực đen tối. Sau đó chính Annie Besant nói về điều này với Người Thầy trẻ tuổi. Bị choáng váng bởi câu nói của bà, anh trả lời rằng nếu bà tin tưởng việc này, anh sẽ không bao giờ nói lại nữa. Bà rút lại những phê bình của bà và tối hôm sau Krishnamurti nói cùng những người cắm trại, “Dạo bộ qua những quả đồi của Ấn độ mùa đông vừa qua, ở đó hiện ra trước mặt tôi Lý tưởng của tôi, Thương yêu của tôi, Đạo sư của tôi, Thầy Vĩ đại của tôi và liên tục từ cảnh đó, dường như tôi đã thấy tất cả cây cối qua Ngài, tất cả núi non, tất cả những cái hồ nhỏ xíu, tất cả những côn trùng bé tí và liên tục từ cảnh đó, sự hiểu rõ đó về những sự vật vẫn còn giữ nguyên.” Chất lượng hòa hợp duy nhất này cùng đạo sư và sự huyền bí của sống tiếp tụcđề mục trong những nói chuyện của anh.

Tại nói chuyện cuối cùng Krishnamurti nói, “Tôi đã thay đổi quá nhiều trong suốt mười lăm ngày vừa qua – cả phía bên trong và phía bên ngoài thân thể của tôi, khuôn mặt của tôi, hai bàn tay của tôi, toàn thân tâm của tôi đã thay đổi. Phương cách duy nhất để hít thở không khí trong lành của sự sống là bằng thay đổi liên tục, náo động liên tục, bất mãn liên tục này.”

Viết về trại Ommen 1926, Esther Bright đã nói:

Thế là A. B. ngồi cạnh anh tại Camp Fires, cùng một thương yêu nồng ấm trong quả tim của bà, đang dò hỏi, đang thương yêu, đang ngưỡng mộ, không luôn luôn đang hiểu rõ, nhưng cùng niềm tin lạ thường nhất rằng anh là Sứ giả của Thời đại Mới mẻ, và rằng trong thời gian tất cả sẽ được làm cho sáng tỏ. Và cùng nhau họ dạo qua đám đông tụ họp chật ních của những người đàn ông và những người đàn bà, xuống con đường nhỏ dẫn đến trung tâm, nơi lửa trại đã được sắp xếp sẵn – những đống cành cây, những khúc cây và những cành con chồng chất, và cùng nhau họ thắp sáng lửa trại – cái đầu bạc trắng già nua ưu việt, và cái đầu đen và những nét đầy ân cần, tinh tế của Krishnaji, đang cùng nhau cúi xuống. Những ngọn lửa bừng bừng, và tất cả đều cùng nhau ngồi yên lặng một khoảng thời gian…

“Nhưng anh là một người thầy” người bạn trung thành của anh, Rajagopal nói với anh vào một ngày tại Ommen, khi một nhóm người chúng tôi cùng nhau tụ họp, đang bàn luận những vấn đề khó hiểu. Krishnaji yên lặng một lúc, và sau đó nói một cách đơn giản, “Tôi đưa ra một cây đèn cho bạn.”

Từ tháng 8 năm 1926 đến tháng 4 năm 1927, Annie Besant và Krishnamurti cùng nhau ở tại Ojai. Có thể đó là thời gian lâu nhất họ cùng nhau trải qua sống từ tuổi trẻ của anh. Vì thấy được một cần thiết nào đó cho sự hiện diện của bà, Annie Besant hủy bỏ chuyến quay lại Ấn độ của bà và nhiều cuộc hẹn chờ đợi bà ở đó. Trong khi ở Ojai bà và Krishnamurti trồng cây, và bà bận rộn mua những mảnh đất ở Ojai Valley cho cái gì mà sau này được gọi là Happy Valley Foundation. Sống tương đối gần gũi anh bà trở nên ý thức được anh đã tiến xa biết chừng nào đối với sự giảng dạy của Tổ chức Thông thái chính thống.

Mrs. Besant đang thấy một Krishnamurti mới mẻ. Bà có một nhận biết đang gia tăng rằng sự tiên tri lúc anh còn nhỏ rằng thân thể của Krishnamurti sẽ là phương tiện qua đó một phần của ý thức Maitreya sẽ hóa thân là không đúng đắn, và rằng ý thức của Krishnamurti và Chúa Maitreya có thể sẽ hợp nhất. Bà sẽ xác nhận điều này trong một lá thư gởi Arundale vào ngày 12 tháng mười: “J. K. luôn luôn đang thay đổi, nhưng có vẻ không phải là anh bước ra và Chúa bước vào, có vẻ hao hao giống như sự hòa tan của ý thức.”

Mỗi lúc một rõ rệt rằng không phải những năm được hình thành trong Tổ chức Thông thái dưới sự chỉ dẫn của Leadbeater, cũng không phải những khắc nghiệt của sống của anh trong suốt những năm chiến tranh ở nước Anh, cũng không phải thời gian được trải qua bởi Krishnamurti trong trung tâm của giới quý tộc người Anh đã đúc khuôn bộ não của anh. Nó không thể được lập trình, nhưng được nghỉ ngơi – đang nhìn ngắm, đang lắng nghe, không bị bận tâm.

Sau một thời gian ấp ủ lâu, cái trí của Krishnamurti, đã tỏa ra trên những tầng bề mặt mà mang máng thâu nhận và phản ứng theo thứ bậc và nghi lễ của Tổ chức Thông thái, và đã trỗi dậy tánh ban sơ, không một tì vết. Một năng lượng mãnh liệt được cần đến để lật tung gốc rễ của cái trí con người – để nghi ngờ, để nhận biết, để phủ nhận cấu trúc của ý thức con người, để thâm nhập vào phía bên trong của sự suy nghĩcảm thấy khi nó vận hành, để phá vỡ tất cả những hiểu biếtnhận biết mới mẻ lại. Mộc mạc và một sống của khắc khổ không những hòa tan cùng con người của anh nhưng còn, như anh sẽ nói, “một tất yếu để bảo toàn năng lượng.”

Sự thức dậy của anh đã phát sáng. Những từ ngữ của anh có một chất lượng đơn giản kinh ngạc. Ngày 9 tháng hai Krishnamurti viết cho Leadbeater:

Em biết sứ mệnh của em và công việc của em. Em biết bằng sự chắc chắn rằng em đang hòa tan vào ý thức của Người Thầy duy nhất và rằng Ngài sẽ lấp kín em hoàn toàn. Em cảm thấy và em cũng biết rằng cái tách của em gần gần đầy lên miệng và nó sẽ tràn ra mau thôi. Từ bây giờ đến đó em phải chờ đợi và bằng sự kiên nhẫn tha thiết. Em khao khát làm và sẽ làm cho mọi người hạnh phúc.

Trước khi Mrs. Besant rời nước Mỹ, bà phát biểu trước Báo chí Mỹ: “Một lần nữa Tinh thần Thiêng liêng đã giáng xuống một con người, Krishnamurti, người mà trong thời gian sống của anh là hoàn hảo như những người biết anh có thể chứng thực. Thầy Thế giới ở đây.”

Tại khai mạc của Star Camp tại Ommen năm 1927, Krishnamurti nói một ngôn ngữ hoàn toàn đối lập với sự giảng dạy của Tổ chức Thông thái. Ngày 30 tháng sáu anh nói, “Trong nhiều sống và trong tất cả sống này, và đặc biệt vài tháng vừa qua, tôi đã đấu tranh để được tự do – được tự do khỏi bạn bè của tôi, những quyển sách của tôi, những kết giao của tôi. Bạn phải đấu tranh cho cùng sự tự do như thế. Phải có sự bất an liên tục phía bên trong bạn.” Krishnamurti đang phản kháng. Không người thầy hay uy quyền nào gây thỏa mãn anh. “Ai mang sự thật?”, anh sẽ chất vấn.

Anh đang tự chất vấn mình để tìm ra sự thật đằng sau hình dạng của Thầy Thế giới. Anh kể cùng những người lắng nghe rằng khi còn là một cậu trai anh đã thấy Chúa Krishna cầm một cây sáo; trong Tổ chức Thông thái cùng Leadbeater, anh thấy Thầy K. H. và sau đó Chúa Maitreya, trong hình dạng mà những người kết giao với anh đã tin tưởng. Trong những năm vừa qua, trong sự đau khổ cùng cực của anh, anh đã thấy Buddha, trong sự hài lòngvinh quang của anh.

Những Thương Yêu mà anh nói là Krishna, những Bậc Thầy, Buddha – và xa xa khỏi tất cả những người này. “Những Thương yêu là bầu trời bao la, bông hoa, mọi con người. Krishnamurti không ở phía bên ngoài nhưng ở phía bên trong của họ. Bởi vì sự đau khổ của anh, anh đã trở thành một cùng bức tranh.”

Chẳng mấy chốc, Jinarajadasa sẽ đến trại, và rất mau lẹ ông ấy nghi ngờ những khẳng định của Krishnamurti. Bởi vì rõ ràng rằng Krishnamurti đang phủ nhận tất cả uy quyền, thậm chí những uy quyền cơ bản nhất; như sự tin tưởng những Bậc Thầy và con đường huyền bí. Ngày 11 tháng bảy, trong nói chuyện bên lửa trại của anh, anh trả lời Jinarajadasa: “Tôi và những Thương yêu của tôi là một. Tầm nhìn là tổng thể. Đối với tôi, đó là sự giải thoát.” Và tiếp theo: “Nhân cách của J. Krishnamurti đã được nuốt trọn trong ngọn lửa – điều gì xảy ra sau đó không đặt thành vấn đề – liệu tia lửa vẫn còn trong ngọn lửa hay thoát khỏi.”

Năm sau, mùa hè 1928, Krishnamurti có mặt tại Eerde ở Hà lan. Anh đã bắt đầu nói với bạn bè của anh về việc có thể giải tán The Order of The Star.

Một tập họp rất đông trên ba ngàn người chờ Krishnamurti tại trại Ommen, kéo dài từ ngày 2 đến ngày 12 tháng tám. Bằng sự minh bạch vô cùng, anh nói về sự cần thiết cho những người lắng nghe phải loại bỏ tất cả những nền tảng của uy quyền, đặc biệt uy quyền của Thầy Thế giới. Mỗi người phải sống chỉ cùng ngọn đèn bên trong. Sau đó, khi trả lời một người đại diện của hãng Reuter có mặt ở đó, anh nói, “Buddha, Christ không bao giờ đã khẳng định là siêu phàm, chính là người môn đệ mà, qua sự tôn sùng của anh ấy, đã cho sự siêu phàm vào người thầy.” Người phóng viên đầy kinh ngạc, sau đó, Thầy Thế giới tiếp tục nói về chơi golf và được người ta chấp khi chơi, mà là cộng thêm 2. Krishnamurti đã chơi golf trên vài sân golf nổi tiếng nhất trong thế giới.

Tin tức về sự bất hòa giữa Krishnamurti và Tổ chức Thông thái lan tràn thật mau lẹ. Annie Besant không tham dự trại Ommen, và khi nghe điều gì Krishnamurti đã phát biểu, bà ngã bệnh rất nặng. Theo một lời thuật lại bà đã bị suy sụp tinh thần, ngất xỉu, và bất tỉnh. Bà bị bệnh lâu lắm. Những khả năng tinh thần của bà biến dần từ từ; bà bị mất trí nhớ và không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Bà đã được kể lại rằng Krishnamurti đã từ chối chấp nhận vai trò của Đấng Cứu thế theo những giới hạn được xếp đặt bởi Tổ chức Thông thái.

Khi bà quay lại Ấn độ, bà đã hồi tỉnh đầy đủ và quyết định đóng cửa Khu Bí truyền, tâm điểm của sự giảng dạy huyền bí bên trong Tổ chức, tuyên bố rằng Thầy Thế giới đã hiện diện ở đây, và không ai có quyền để giảng dạy. Vào ngày 30 tháng mười một năm 1928, bà viết cho Krishnamurti, khi anh đang trên đường đến Adyar:

Yêu quý,

Mẹ đang nhờ Mr. Varma mang một lá thư được gởi đến tất cả những Thư ký liên quan đến Khu Bí truyền E. S., bởi vì mẹ cam đoan rằng tất cả những học trò của chúng ta phải hiến dâng họ vào sự học hành về những mong muốn và những lý tưởng của con, và xóa sạch tất cả những giảng dạy xưa cũ cho hiện tại. Vì vậy, mẹ đang đình chỉ toàn bộ Khu Bí truyềnthời hạn, dành tất cả sự giảng dạy cho con. Mẹ rất tiếc không có mặt khi con đến, nhưng chẳng thể nào được.

Tất cả tình yêu của mẹ chuyển đến con Yêu quý.

Mẹ.

Tuy nhiên, vài tháng sau, Mrs. Besant nhượng bộ những áp lực từ những thành viên khác và mở cửa lại Khu Bí truyền. Bà cũng nói với Krishnamurti rằng bà muốn từ chức chủ tịch của Tổ chức Thông thái và chỉ mong muốn ngồi tại chân anh và lắng nghe lời giảng; nhưng anh từ chối không cho phép bà làm như thế.

Vào ngày 3 tháng tám năm 1929, trong sự hiện diện của Mrs. Besant và ba ngàn hội viên của The Order of The Star có mặt tại trại Ommen, Krishnamurti tuyên bố quyết định giải tán The Order of The Star, mà anh là chủ tịch. Nói chuyện cùng những hội viên là một tóm tắt của những thấu triệt đã nảy ra trong anh suốt những năm tháng kể từ sau cái chết của người em. Nói chuyện có lẽ là một phát biểu phôi thai về vị trí của anh, một phát biểu vẫn còn y nguyên suốt sống của anh: “Tôi khẳng định rằng Sự thật là một mảnh đất không lối vào, và bạn không thể tiếp cận nó bằng bất kỳ con đường nào cả, bằng bất kỳ tôn giáo nào, bằng bất kỳ giáo phái nào. Đó là quan điểm của tôi, và tôi trung thành với điều đó một cách tuyệt đối và vô-điều kiện. Sự thật, bởi vì không bị giới hạn, không bị quy định, không thể tiếp cận bởi bất kỳ con đường nào, không thể được tổ chức; cũng không có bất kỳ tổ chức nào cần phải được hình thành để dẫn dắt hay để ép buộc con người theo bất kỳ con đường đặc biệt nào. Nếu đầu tiên bạn hiểu rõ điều đó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng tổ chức một niềm tin là điều không thể xảy ra được. Một niềm tin chỉ là một vấn đề thuộc cá nhân, và bạn không thể và không được tổ chức nó. Nếu bạn thực hiện, nó trở thành chết rồi, cố định; nó trở thành một tín điều, một giáo phái, một tôn giáo, để được áp đặt vào những người khác. Sự thật bị thâu hẹp lại và là trò giỡn cợt cho những người nhu nhược, cho những người chỉ bị bất mãn trong chốc lát. Sự thật không thể bị hạ xuống, trái lại cá thể phải nỗ lực để vươn lên nó. Bạn không thể mang đỉnh núi xuống thung lũng. Nếu bạn muốn đến được đỉnh núi, bạn phải đi qua thung lũng, leo lên những sườn dốc, không sợ hãi những vách núi hiểm nghèo. Bạn phải trèo lên hướng Sự thật, nó không thể được bước xuống hay được tổ chức cho bạn. Tôi không muốn phụ thuộc vào bất kỳ tổ chức nào của một loại tinh thần, làm ơn hiểu rõ điều này. Lại nữa, tôi khẳng định rằng không tổ chức nào có thể dẫn dắt con người đến tánh tinh thần. Nếu một tổ chức được tạo ra cho việc này, nó trở thành một cái nạng, một hèn nhát, một ngục tù, và chắc chắn phải làm què quặt cá thể, và ngăn cản anh ấy không phát triển, không thiết lập trạng thái độc nhất của anh ấy, mà nằm trong sự khám phá cho chính anh ấy về Sự thật tuyệt đối, không bị quy định. Vì vậy đó là một lý do tại sao tôi đã quyết định, giống như tôi tình cờ là người Đứng đầu của The Order, giải tán nó. Không ai đã thuyết phục tôi đến sự quyết định này.

“Đây không là một hành động vĩ đại, bởi vì tôi không muốn những người theo sau, và tôi có ý điều này. Khoảnh khắc bạn theo sau người nào đó bạn không còn theo đuổi sự thật. Tôi không quan tâm liệu bạn chú ý đến điều gì tôi nói hay không. Tôi khao khát thực hiện một việc nào đó trong thế giới và tôi có ý định thực hiện nó bằng một tập trung không lay động. Chính tôi chỉ đang quan tâm đến một điều cốt lõi: đưa con người đến sự tự do. Tôi khao khát giúp đỡ anh ấy được tự do khỏi tất cả những chuồng cũi, khỏi tất cả những sợ hãi, và không thành lập những tôn giáo, những giáo phái mới, cũng không thiết lập những lý thuyết mới và những triết lý mới. Vậy thì tự nhiên bạn sẽ hỏi tôi, tại sao tôi lại đi khắp thế giới, tiếp tục nói chuyện. Tôi sẽ nói cho bạn lý do gì tôi làm việc này: không phải vì tôi ham muốn một nhóm người theo sau, không phải vì tôi thèm khát một nhóm đặc biệt của những môn đệ đặc biệt. (Con người thích khác biệt với những con người anh em của họ nhiều làm sao, những phân biệt của họ có lẽ lố bịch, vô lý, nhỏ nhen làm sao: tôi không muốn khuyến khích sự vô lý đó.) Tôi không có những môn đệ, không có những tông đồ, hoặc trên quả đất này hoặc trên lãnh vực của tinh thần.

“Một phóng viên báo chí đã phỏng vấn tôi, nghĩ rằng đó là một hành động vĩ đại khi giải tán một tổ chức có hàng ngàn hội viên. Đối với anh ấy đó là một hành động vĩ đại bởi vì, anh ấy hỏi, ‘Anh sẽ làm gì sau đó, anh sẽ sống như thế nào? Anh sẽ không có những người theo sau, mọi người sẽ không còn lắng nghe anh nữa.’ Nếu chỉ có năm người mà sẽ lắng nghe, mà sẽ sống, mà hướng về vĩnh hằng, điều đó quá đủ rồi.

“Như tôi vừa nói, tôi chỉ có một mục đích: giúp đỡ con người được tự do, thúc đẩy anh ấy hướng về tự do; giúp đỡ anh ấy đập vỡ tất cả những giới hạn, bởi vì chỉ một mình điều đó sẽ cho anh ấy sự hạnh phúc vĩnh cửu, sẽ cho anh ấy sự nhận biết không bị quy định của cái tôi.

“Bởi vì tôi được tự do, tổng thể, không bị quy định – không phải một phần, không phải tương đối, nhưng Sự thật tổng thể mà là vĩnh hằng – tôi khao khát những người, mà tìm kiếm để hiểu rõ tôi, để được tự do, không phải để theo sau tôi, không phải để từ tôi sáng chế một cái cũi mà sẽ trở thành một tôn giáo, một giáo phái. Ngược lại, họ nên được tự do khỏi tất cả những sợ hãi – khỏi sợ hãi của tôn giáo, khỏi sợ hãi của không được cứu rỗi, khỏi sợ hãi của tinh thần, khỏi sợ hãi của tình yêu, khỏi sợ hãi của chết, khỏi sợ hãi của ngay cả sống. Như một họa sĩ vẽ một bức tranh bởi vì anh ấy nhận được sự thỏa mãn trong bức tranh đó, bởi vì nó là sự tự-diễn tả của anh ấy, sự vinh quang của anh ấy, sự hạnh phúc của anh ấy, vì vậy tôi làm việc này và không phải bởi vì tôi muốn bất kỳ thứ gì từ bất kỳ người nào.

“Bạn quen thuộc với uy quyền, hay quen thuộc với bầu không khí của uy quyền mà bạn nghĩ sẽ dẫn dắt bạn đến tinh thần. Bạn nghĩ và hy vọng rằng một người khác có thể, bằng những quyền năng lạ thường – một phép lạ – chuyên chở bạn đến lãnh vực của sự tự do vĩnh cửu mà là Hạnh phúc. Toàn tầm nhìn của bạn về sống [được] đặt nền tảng trên uy quyền đó.

“Đến lúc này bạn đã lắng nghe tôi được ba năm, mà không có bất kỳ sự thay đổi nào đang xảy ra ngoại trừ trong một ít người. Bây giờ hãy phân tích điều gì tôi đang nói, hãy phê bình, để cho bạn có thể hiểu rõ một cách thấu đáo, một cách cơ bản. Khi bạn tìm kiếm một uy quyền để dẫn dắt bạn đến tinh thần, một cách tự động chắc chắn bạn phải dựng lên một tổ chức quanh uy quyền đó. Bằng chính sự sáng chế tổ chức đó, mà, bạn nghĩ, sẽ giúp đỡ uy quyền này dẫn dắt bạn đến tinh thần, bạn bị nhốt trong một cái cũi.

“Thay vì những phân biệt thuộc tinh thần cũ kỹ, thay vì những tôn sùng cũ kỹ, bạn có những tôn sùng mới mẻ. Tất cả các bạn đều phụ thuộc vào người nào đó để có tinh thần của bạn, vào người nào đó để có sự hạnh phúc của bạn, vào người nào đó để có sự khai sáng của bạn; và mặc dù các bạn đã chuẩn bị cho tôi suốt mười tám năm, khi tôi nói tất cả điều này là không cần thiết, khi tôi nói rằng các bạn phải dẹp đi tất cả chúng và nhìn vào chính các bạn cho sự khai sáng, cho sự vinh quang, cho sự tinh khiết, và cho sự vô nhiễm của cái tôi, không một người nào trong các bạn sẵn lòng làm nó. Có lẽ có một ít người, nhưng rất, rất ít.

“Vì vậy tại sao cần có một tổ chức?

“Tại sao phải có những người đạo đức giả, giả dối đang theo sau tôi, hiện thân của Sự thật? Làm ơn hãy nhớ rằng tôi không đang nói điều gì đó gay gắt hay tàn nhẫn, nhưng chúng ta đã đến một tình huống khi bạn phải đối diện với những sự việc như chúng là. Năm ngoái tôi đã nói rằng tôi sẽ không thỏa hiệp. Lúc đó, chẳng có bao nhiêu người lắng nghe tôi. Năm nay tôi đã trình bày điều đó rất rõ ràng. Tôi không biết bao nhiêu ngàn người khắp thế giới – những hội viên của The Order – đã chuẩn bị cho tôi suốt mười tám năm, và tuy nhiên lúc này họ không sẵn lòng lắng nghe một cách tổng thể, không điều kiện, đến điều gì tôi nói.

“Vì vậy tại sao phải có một tổ chức?

“Như trước kia tôi đã nói, mục đích của tôi là giúp đỡ con người được tự dođiều kiện, bởi vì tôi khẳng định rằng tinh thần duy nhất là sự vô nhiễm của cái tôi mà là vĩnh hằng, là sự hòa hợp giữa lý trí và tình yêu. Đây là Sự thật tuyệt đối, không bị quy định mà là chính Sự sống. Vì vậy, tôi muốn giúp đỡ con người được tự do, hân hoan như chim chóc trong bầu trời xanh, thênh thang, độc lập, ngây ngất trong sự tự do đó. Và tôi, người các bạn đã chuẩn bị suốt mười tám năm, lúc này nói rằng, các bạn phải được tự do khỏi tất cả những sự việc này, phải được tự do khỏi tất cả những phức tạp của bạn, những vướng víu của bạn. Muốn có cái này, bạn không cần có một tổ chức được đặt nền tảng trên niềm tin thuộc tinh thần. Tại sao lại phải có một tổ chức cho năm hoặc mười người trong thế giớihiểu rõ, mà đang đấu tranh, mà đã gạt đi tất cả những sự việc nhỏ nhen? Và đối với những người nhu nhược, không thể có tổ chức nào giúp đỡ họ tìm được Sự thật, bởi vì Sự thật ở trong mọi người; nó không xa, nó không gần; nó hiện diện ở đó vĩnh hằng.

“Những tổ chức không thể khiến cho các bạn được tự do. Không con người nào từ phía bên ngoài có thể khiến cho các bạn được tự do: không có sự tôn sùng được tổ chức, không có sự hy sinh chính các bạn cho một nguyên nhân, có thể khiến cho các bạn được tự do; không uốn nắn các bạn vào một tổ chức, không quăng các bạn vào công việc, có thể khiến cho các bạn được tự do. Các bạn dùng [một] máy đánh chữ để viết những lá thư, nhưng bạn không đặt nó trên bàn thờthờ phụng nó. Nhưng đó lại là việc gì các bạn đang làm khi những tổ chức trở thành sự quan tâm chính của các bạn. ‘Có bao nhiêu hội viên trong nó?’ Đó là câu hỏi đầu tiên tôi được hỏi bởi tất cả những phóng viên báo chí. ‘Anh có bao nhiêu người theo sau? Nhờ số lượng tham gia của họ tôi sẽ đánh giá liệu anh nói là sự thật hay giả dối.’ Tôi không biết có bao nhiêu người. Tôi không quan tâm đến điều đó. Thậm chí, nếu có một người đã được tự do, từng đó cũng đủ rồi.

“Lại nữa, các bạn có ý tưởng rằng chỉ những người nào đó mới giữ chìa khóa của Vương quốc Hạnh phúc. Không ai giữ nó. Không ai có uy quyền để giữ chìa khóa đó. Chìa khóa đó là cái tôi riêng của các bạn, và trong sự thăng hoa và trong sự tinh khiết và trong sự vô nhiễm của chính cái tôi đó là Vương quốc Vĩnh hằng.

“Vì vậy, các bạn sẽ thấy rằng toàn cấu trúc mà các bạn đã dựng lên, tìm kiếm sự giúp đỡ phía bên ngoài, phụ thuộc vào những người khác cho sự thanh thản của các bạn, cho hạnh phúc của các bạn, cho sức mạnh của các bạn là điều phi lý cực kỳ. Cái này chỉ có thể tìm được bên trong chính các bạn.

“Vậy là tại sao phải có một tổ chức?

“Bạn đã quá quen thuộc được chỉ bảo bạn đã hoàn thiện đến mức độ nào, tình trạng tinh thần của bạn ra sao. Thật ngô nghê làm sao! Người nào ngoại trừ chính bạn có thể bảo cho bạn liệu phía bên trong bạn tốt lành hay xấu xa? Người nào ngoại trừ chính bạn có thể bảo cho bạn liệu bạn không tội lỗi? Bạn không nghiêm túc trong những việc này.

“Nhưng những người thực sự khao khát để hiểu rõ, đang hướng đến để tìm được vĩnh hằng, không khởi đầu và không một kết thúc, sẽ đi cùng nhau bằng một mãnh liệt lạ thường, sẽ là một hiểm họa cho mọi thứ không cốt lõi, cho những ảo tưởng, cho những cái bóng. Và họ sẽ tập trung, họ sẽ trở thành ngọn lửa, bởi vì họ hiểu rõ. Chúng ta phải sáng tạo một nhóm như thế, và đó là mục đích của tôi. Bởi vì tình bằng hữu trung thực đó – mà có vẻ bạn không biết – sẽ có sự hợp tác thực sự về vai trò của mỗi người. Và việc này không phải vì uy quyền, không phải vì được cứu rỗi, không phải hy sinh cho một nguyên nhân, nhưng bởi vì bạn thực sự hiểu rõ, và thế là có thể sống trong vĩnh hằng. Đây là một việc to tát hơn tất cả vui thú, hơn tất cả hy sinh.

“Vì vậy đây là vài lý do tại sao, sau khi suy nghĩ cẩn thận suốt hai năm, tôi đã đưa ra quyết định này. Nó không phải một động cơ nhất thời. Tôi đã không bị thuyết phục phải thực hiện nó bởi bất kỳ người nào – tôi không bị thuyết phục trong những việc như thế. Suốt hai năm, tôi đã suy nghĩ về điều này, chầm chậm, cẩn thận, kiên nhẫn, và bây giờ tôi đã quyết định giải tán The Order, như tôi tình cờ là người đứng đầu của nó. Các bạn có thể thành lập những tổ chức khác và chờ đợi người nào đó. Tôi không quan tâm đến việc đó, và cũng không quan tâm đến việc tạo ra những chuồng cũi mới, những trang trí mới cho những chuồng cũi đó. Sự quan tâm duy nhất của tôi là giúp đỡ con người được tự do một cách tuyệt đối, không điều kiện.”

Sau đó, nhiều tổ chức và những quỹ khác nhau bị đóng cửa, những đất đai và những điền trang rộng lớn được giao lại cho những người dâng tặng ban đầu. Một văn phòng nhỏ được thành lập với Rajagopal như người tổ chức chính, để đảm trách những xuất bản và những nói chuyện của Krishnamurti. Đến lúc này, Krishnamurti đang nổi lên như một triết gia thế tục, hoàn toàn căm ghét tất cả những niềm tin thuộc tôn giáo, và nhiều hội viên tích cực của Tổ chức Thông thái khẳng định rằng Thầy Thế giới sắp đến đã bị hư hỏng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13737)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22214)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21871)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27379)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23276)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22771)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25710)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13990)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13434)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26370)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18475)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28423)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21376)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14897)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19215)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18574)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11792)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11633)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11891)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12395)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11903)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21866)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11095)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant