Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. “Có khuôn mặt đó bên cạnh tôi”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8021)
12. “Có khuôn mặt đó bên cạnh tôi”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 2

 KRISHNAMURTI Ở ẤN ĐỘ

1947 – 1949

CHƯƠNG 12

“Có khuôn mặt đó bên cạnh tôi.”

K

hi tôi quay lại Bombay. Tôi trải qua một trải nghiệm không thể giải thích được và rất sâu thẳm. Những giác quan của tôi, bị xé nát khỏi lề thói của nó, đã nổ tung. Một đêm, khi tôi nằm xuống để chuẩn bị ngủ, tôi cảm thấy sự tiếp xúc tràn ngập của một hiện diện, đang chờ đợi. Tôi được thâu nhận và được bao bọc trong một chất lỏng đậm đặc trong tử cung. Tôi đang bị chết đuối, bởi vì tôi cảm thấy ý thức của tôi đang mất dần. Thân thể của tôi phản kháng; nó vật lộn, không thể chấp nhận sự bao bọc kín mít này, ý thức của chết này. Sau đó, sự hiện diện yên lặng biến mất. Việc này xảy ra trong ba đêm liên tiếp. Mỗi lần, thân thể của tôi vật lộn; nó kháng cự sự đụng độ này, không thể đối diện sự tiếp xúc của chết này, mà trôi qua thật mau lẹ như nó đã đến, không bao giờ quay lại. Không có sợ hãi. Tôi kể cho Krishnaji về nó tại gặp gỡ kế tiếp của chúng tôi, và anh bảo tôi cứ để nó như thế, không giữ nó cũng không kháng cự nó.

 Krishnaji yêu cầu chúng tôi giữ bí mật việc gì chúng tôi đã chứng kiến ở Ooty. Chúng tôi cảm thấy rằng anh không muốn nó gây hoang mang sự rõ ràng, sự chính xác, và sự hiệp thông của lời giảng. Nhưng đến những năm 1970, chính Krishnaji bắt đầu kể về nó cho những người gần gũi anh. Tôi hỏi, “Anh nghĩ rằng những tế bào não vật chất, không thể kiềm hãm hay chứa đựng sự vô hạn của năng lượng đang chảy vào bộ não, phải tạo ra những không gian trong bộ não để duy trì nó? Liệu phải có một thay đổi thuộc vật chất trong chính những tế bào não? Hay nó giống như một tia lazer đang chiếu vào những tế bào não để khiến cho chúng có thể vận hành trọn vẹnvì vậy chứa đựng năng lượng vô hạn?”

 Krishnaji trả lời, “Có thể đó là như thế.” Anh ngừng lại, và sau đó tiếp tục. “Sau Ojai, Leadbeater không thể giải thích được sự đau đớn, Mrs. Besant cũng vậy. Sự giải thích được đưa ra bởi họ là rằng ý thức của Krishnaji phải được trống không cho một mảnh của Maitreya Bodhisattva sử dụng thân thể của anh.”

 Khi được hỏi liệu đó là “Maitreya,” anh không nói đúng hay sai. Tôi hỏi, “Liệu có phải rằng chúng tôi đã chứng kiến cái trí đầu tiên đang vận hành đầy đủ, tổng thể?”

 K nói, “Có thể, và đó là điều gì phải được thực hiện cho những em bé ở đây [tại Rishi Valley School].”

 Krishnamurti, năm 1979 đang nói về những xảy ra ở Ooty, đã nói rằng đối với anh đường ranh giới phân chia giữa sống và chết chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, rất mỏng manh và dễ bị đứt. Trong suốt tình trạng khi thân thể là một cái vỏ, có khả năng rằng K có thể lang thang đi khỏi và không bao giờ quay lại, hay những yếu tố nào đó mà muốn phá hoại sự hóa thân có thể gây nguy hại cho thân thể. Vì vậy, không thể có sự sợ hãi nơi những nguời gần gũi anh tại thời điểm đó. Sự sợ hãi thu hút ma quỷ.

 Tôi kể với anh rằng trong khi anh đang ở trong những tình trạng đó, chỉ có thân thể đang vận hành; có một trống không trong thân thể. Giọng nói giống như trẻ em. K nói, “Bạn không thể giải thích hai giọng nói bằng cách nói rằng một giọng là giọng nói của thân thể, một mình nó, hay sao?”

 Tôi hỏi, “Chỉ thân thể đang nói?”

 Anh trả lời, “Tại sao không?”

 “Chỉ một cái vỏ?” Tôi kiên trì.

 “Vâng, tại sao không?” Tiếp theo, K hỏi tôi, “Liệu giọng nói quá khích động?”

 Tôi trả lời, “Không có sự khích động.”

 “Liệu nó là một trạng thái tưởng tượng?” Anh hỏi.

 “Làm thế nào tôi có thể biết được?” Tôi trả lời.

 K hỏi việc gì đã xảy ra sáng hôm sau. Tôi nói thỉnh thoảng chúng tôi cùng anh dạo bộ. Krishnaji rất tươi trẻ, sinh động. Sự đau đớn không để lại dấu vết, và anh có vẻ đã quên bẵng điều gì đã xảy ra. Anh cười nhiều, nhìn chúng tôi một cách giễu cợt, đầy thương yêu, chu đáo, phủ ngập chúng tôi bằng sự hiện diện của anh, và không có câu trả lời cho những câu hỏi của chúng tôi. Anh nói rằng anh không biết.

 Cùng năm đó, 1979, khi K ở Bombay, vài người chúng tôi yêu cầu anh giải thích hiện tượng của khuôn mặt thay đổi. Anh nói, “Cách đây nhiều năm, tôi thức giấc và có khuôn mặt đó bên cạnh tôi. Có khuôn mặt đó mà khuôn mặt của K đang trở thành. Khuôn mặt này luôn luôn ở cùng tôi, một cách hạnh phúc. Khuôn mặt rất lạ thường, cao cả vô cùng, tinh khiết.” Anh nói như thể những từ ngữ của anh liên quan đến một con người khác. “Và một ngày khuôn mặt không còn ở đó nữa.”

 “Liệu nó đã trở thành một cùng K?” Tôi hỏi.

 K nói anh không biết. Anh cũng nói về sự cần thiết của thân thể phải được bảo vệ. Không có gì xấu xa nên xảy ra quanh nó trong khi K ra khỏi, không những tồi tệ. Trong tình trạng đó thân thể không phòng vệ, tất cả mọi loại yếu tố đều muốn phá hoại nó. “Khi có tốt lành, cũng có cái còn lại.”

 Anh được hỏi liệu cái xấu xa có thể đảm đương thân thể của anh khi nó bị trống không. “Không” của anh là tuyệt đối.

 “Vậy thì cái xấu xa có thể làm gì? Phá hủy sự hóa thân?”

 “Vâng,” K trả lời, “đó là lý do tại sao phải có tình yêu. Khi có tình yêu có sự bảo vệ.”

 K cũng nói rằng có thể sự đau đớn và việc gì xảy ra là cần thiết, bởi vì bộ não không sẵn sàng. Nhưng dấu vết của không-chín chắn vẫn còn, những tế bào não không đủ rộng lớn để thâu nhận năng lượng. “Khi năng lượng đến đang tràn vào và bộ não không thể chứa đựng nó, lúc đó năng lượng cảm thấy nó phải làm mềm mại vật phục vụ của nó. Đó có lẽ là hoạt động riêng của nó.”

 Nói thêm về sự cần thiết phải có hai người ở cùng thân thể, K trả lời, “Nơi nào có tình yêu có sự bảo vệ. Sự hận thù cho phép điều xấu xa đi vào.”

 Khi được hỏi ý thức của K đi đâu, anh trả lời, “Tôi đã tự hỏi chính mình điều gì xảy ra khi không có chuyển động của bộ não.” Chốc lát sau anh tiếp tục, “Nó chấm dứt hoàn toàn. Chỉ khi nào nó phải biểu lộ thì nó xuất hiện. Nó chấm dứt tồn tại khi nó không còn ở đó. Không khí có bất kỳ vị trí nào, ánh sáng có bất kỳ vị trí nào? Không khí được bao bọc lại và vì vậy nó ở đó. Đập vỡ cái vỏ bọc, nó ở khắp mọi nơi.”

 Dường như anh ngần ngừ khi tìm hiểu thêm nữa. Anh nói rằng anh không nên tìm hiểu thêm nữa. “Bạn có thể hỏi,” anh nói, “và tôi sẽ trả lời. Nhưng tôi không thể hỏi.”

 Krishnaji ghé thăm Bangalore trên đường quay lại từ Ootacamund. Anh đang ở tại Premalaya, một ngôi nhà của người vật lý nổi tiếng, Vikram Sarabhai, Chủ tịch của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử và một người tiên phong của tìm hiểu không gianẤn độ. Maurice Friedman đang chăm sóc anh. Một ham muốn thử nghiệm không thể chế ngự đã khiến cho Friedman gợi ý Krishnaji rằng ăn tỏi có lợi cho sức khỏe của anh. Thế là, sáu tép tỏi sống được thêm vào thực đơn ăn uống hàng ngày của anh. Dưới những chỉ dẫn của Friedman, Balasundaram, người ở Bangalore, xoa bóp cho anh hàng ngày bằng dầu thuốc.

 Đến lúc này, một nhóm những người trẻ đã tụ tập quanh người thấy. Balausundaram và người vợ Vishalakshi, Sunanda và người em bà con của cô Lalita, Dwaraka (một người bạn trẻ từ Bangalore), và Shanta Rao liên tục hiện diện, thêm vào màu sắc, nói chuyện, và tiếng cười cho bầu không khí. Sanjeeva Rao, người ở Bangalore, bị bực dọc bởi quá nhiều người trẻ đang tụ tập quanh Hiện diện đẹp đẽ lạ thường này. Anh ấy cảm thấy có một khinh suất nào đó trong bầu không khí, và có lẽ được nhắc nhở bởi những chỉ dẫn của Annie Besant về sự cần thiết cho những người mới khai trí phải bảo vệ Krishnji chống lại những lực lượng phá hoại. Những đồn đại bắt đầu, và vài đồn đại trôi nổi chung quanh đến tai Krishnaji. Nhận biết được một thiển cận tự mãn nào đó trong tình huống đó, anh khiển trách những nhóm lớn tuổi tại một gặp gỡ trước công chúng. Anh nói về bản chất phá hoại của sự bàn tántrách nhiệm và sự cần thiết phải có một cái trí nghiêm túc.

 Đến lúc này, Madhavachari đã đến Bangalore. Ông kinh hoàng bởi những thử nghiệm của Friedman, và ngay tức khắc yêu cầu Friedman chấm dứt những xoa bópsử dụng tỏi trong ăn uống hàng ngày của Krishnaji.

 Subba Rao, một người thuộc Tổ chức Thông thái cũ đã tách rời và đang ở cùng Krishnaji và bây giờ là hiệu trưởng của Rishi Valley School, vội đến Bangalore để bàn bạc những công việc của trường cùng Krishnaji. Subba Rao là một người giáo dục tinh tế và tài giỏi, được yêu quý bởi những học sinh; nhưng ông đang lớn tuổi rồi. Bởi vì Madhavachari lặp đi lặp lại nhiều lần rằng, công việc của Rishy Valley rơi vào tay của nhóm Coimbatore. Mặc dù nó không bao giờ trở nên rõ ràng cho tôi liệu có gì sai trái với nhóm này và họ là ai, thường thường nó được chấp nhận rằng họ không được hoan nghênh lắm. Subba Rao, không thể kiểm soát những công việc của trường, đã đề nghị xin từ chức. Có một ngày, Sanjeeva Rao nói với Krishnaji, “Rishi Valley được mua với giá 10.000 bảng Anh và được trao tặng vì mục đích đó. Nó là tài sản của anh. Nó đang bị phá hoại. Anh phải can thiệp.” Krishnamurti trả lời thật mau lẹ, “Tài sản của tôi? Tôi không có tài sản.”

 Những nói chuyện ở Bangalore được tham dự khá đông, và chẳng mấy chốc những bàn luận được tổ chức liên quan đến Rishi Valley School. Tại thời điểm này, Miss Muriel Payne tham gia vào. Muriel Payne, người đã đến Bangalore từ nước Anh, là một phụ nữ có xương to, năng động cực kỳ. Người đứng đầu của một tổ chức điều dưỡng suốt cuộc chiến tranh, cô bán trường cao đẳng đào tạo y tá của cô và đến Ấn độ. Cô đã biết Krishnamurti nhiều năm. Thật ra, cô đã kể cho tôi rằng cô đã chăm sóc Krishnamurti khi anh bị bệnh nặng ở Ojai trong những năm 1945 và 1946.

 Cô gặp Krishnamurti ở Bangalore và gợi ý rằng cô sắp xếp một nhóm những người trẻ và bắt đầu làm việc ở Rishi Valley. Khả năng tổ chức thực tế của Miss Payne, được kết hợp với một nhận biếthiểu rõ nào đó trong công việc dạy học, khiến cho cô thành một tánh cách dữ dội. Cô là một người bạn nhiệt tình, nhưng không chấp nhận làm việc không hiệu quả lẫn sự tầm thường và đối xử với mọi người khắt khe. Một người phụ nữ không đẹp phần thân thể, cô không lập gia đình; và sự vắng mặt của tình yêu vật chất đã làm nổi bật lên bản chất tàn nhẫn tự nhiên của cô. Nhưng cô là một người phụ nữ cao trong mọi ý nghĩa của từ ngữ đó. Cô có thể phủ kín căn phòng bằng ý định không thể kiềm chế được của cô để định hình những sống của con người.

 Người ta quyết định thành lập một cộng đồng để điều hành Rishi Valley; nhóm này sẽ gồm có Miss Payne, Madhavachari, Maurice Friedman, Subba Rao, và Rajagopal Iyengar. Cũng ở trong nhóm này là Evelyn Wood, Gordon Pearce, và Adhikaram. Evelyn Wood, một người đàn ông người Anh kết hôn với một phụ nữ người Ấn, một giáo sư tiếng Anh tại Bombay University, đã phục vụ Chính phủ Anh và sau đó ở lại Ấn độ sau Độc lập. Gordon Pearce, một người thuộc Tổ chức Thông thái và người giáo dục nổi tiếng, đã kết hôn với một phụ nữ người Ấn, Anusuya Paranjpaye. Ông đã thành lập một trường công lập ở Gwalior, làm hiệu trưởng Rishi Valley School, và sau đó sẽ bắt đầu Blue Mountain School ở Ootacamund. Adhikaram, một người giáo dục rất nổi tiếng từ Sri Lanka, sau đó trở thành hiệu trưởng danh dự của Colombo University. Sau đó họ đều đi tới Rishi Valley để phụ trách trường. Có lẽ không tránh khỏi, chẳng mấy chốc họ sẽ bị tan rã bởi sự bất đồng. Evelyn là người đầu tiên rời trường, tiếp theo là Maurice Friedman. Madhavachari từ chức, và Subba Rao rời thung lũng. Pearce và Adhikaram không bao giờ đến. Miss Payne bị bỏ lại phải chịu trách nhiệm duy nhất. Lúc đó, Sanjeeva Rao bị kinh hãi bởi Miss Payne và “sự thiếu giáo dục” của cô. Được giáo dục tại Kings College, Cambridge, Sanjeeva Rao không thể khuyến khích sự dốt nát về ngữ pháp tiếng Anh của Miss Payne và lỗi chính tả kinh khủng của cô. Sanjeeva Rao viết những lá thư chua xót cho tôi, phàn nàn về sự dốt nát và không thích hợp cho công việc giáo dục của cô.

 Tại chặng này, một đề nghị được đưa ra rằng Rishi Valley và những mảnh đất quanh nó nên được bán đi. Miss Payne phản ứng mạnh mẽ tới sự bàn tán này và viết cho Krishnamurti, đang ở Poona, phản đối việc bán khu đất nhưng đề nghị trường nên đóng cửa. Miss Payne khuyên thành lập một cộng đồng quốc tế. Madhavachari phản đối mạnh mẽ ý tưởng bán khu đất, và để phản đối, ông rút lui khỏi Rishi Valley Trust.

 Cuối cùng, Krishnaji quyết định rằng Rishi Valley sẽ không được bán. Tuy nhiên, Subba Rao từ chức và trường được đóng cửa một phần bởi Kitty Shiva Rao, người vợ Áo của Shiva Rao, và Rao Sahib Patwardhan, sau đó làm chủ tịch và thư ký của Rishi Valley Trust. Miss Payne quay lại nước Anh, sau đó Madhavachari gia nhập lại Trust. Tuy nhiên, Miss Payne quay lại phương Đông và gặp Krishnamurti ở Colombo, Sri Lanka, vào tháng mười năm 1949. Sau đó, cùng với Adhikaram và Pearce, cô thành lập Rishi Valley, một cộng đồng để sống những lời giảng của Krishnamurti. Tất cả họ lái xe xuống Rishi Valley và phụ trách vùng đất. Rajagopal Iyengar, một kỹ sư thâm niêm của Central Services đã từ chức sớm khỏi chính phủ để làm việc ở Rishi Valley, cũng là một hội viên của cộng đồng, và cả Maurice Friedman. Không nao núng, Miss Payne phụ trách. Chẳng mấy chốc, những công nhân cũ chỉ còn lại một số người nòng cốt.

 Từ Bangalore K đi đến Poona, nơi anh sẽ ở tại nhà khách của Servants of India Society. Mẹ tôi, Iravati Mehta, sẽ làm chủ nhà và chăm sóc K trong khi anh ở Poona. Cháu trai của tôi, Asit Chandmal, chín tuổi, ở cùng mẹ tôi. Cha của cháu, một thành viên của ngành dân chính Ấn độ, bị một căn bệnh tinh thần. Mẹ và cha của cháu đã ly thân và Asit được nuôi nấng bởi bà của cháu, mẹ của tôi. Nhận biết được sự phức tạp về những vấn đề của đứa trẻ, mẹ đã rút cháu ra khỏi trường học để về ở Poona, từ trực giác hiểu rõ rằng hai tháng dưới cùng mái nhà với K sẽ giúp nhiều cho Asit hơn bất kỳ trường học nào.

 Tôi yêu cầu Asit viết vài hồi tưởng về thời kỳ này, bởi vì cháu đã dành nhiều thời gian cùng K. Trong một lá thư, Asit viết,

 

Khi tôi chín tuổi, tôi ở cùng Krishnaji tại Poona trong nhiều tuần lễ. Bà tôi đã gây dựng ngôi nhà ở Servants of India Society – có hai phòng ngủ và một phòng khách ở giữa. Phòng ăn và phòng bếp trong một nhà nhỏ cách đó hai trăm yards. Chúng tôi thường cùng nhau đi bộ đến cái nhà nhỏ để ăn trưa – cái dù của ông luôn luôn đang bảo vệ ông chống lại thậm chí một chút xíu mặt trời. Ông thường rủ tôi chạy đến căn nhà nhỏ – ông chạy cùng tôi và chúng tôi đến cùng lúc. Tôi chín tuổi và ông gấp sáu lần tuổi của tôi – năm mươi tư. Khi ông thấy tôi đang chơi thả diều, ông kể cho tôi nghe về những cái diều khổng lồ ở California, lớn hơn khoảng cách cánh tay dang rộng của ông, và sau đó, khi ở Diwali, chúng tôi đi đến chợ của Poona, mua pháo, và đốt chúng vào ban đêm. Một lần, khi tôi nhảy tránh một viên pháo đang nổ ông nói, “Quan sát nó, đừng ngoảnh mặt đi.”

 

Trước khi anh rời Bangalore, K đã tặng Sunanda 400 rupees và một cái khăn choàng đầu. Nó là một cử chỉ tượng trưng, một gợi ý rằng cô rời nhà và vào thế giới. Cô đã đến Poona cùng người em họ Lalita, Dwaraka, và Gautam, người chú ngoại của cô. Họ ở nhà nghỉ của Tổ chức Thông thái. Cũng có mặt là Gawande, một thanh niên trẻ rất thông minhchín chắn mà sau đó sẽ trở thành một khất sĩ.

Khán giả tại những nói chuyện rất chủ động. Những người theo Gandhi, những sinh viên, những người viết văn, những học giả, và những người có nghề nghiệp cao, đến những gặp gỡ. Những bàn luận rất sôi nổi, được tập trung vào những câu hỏi về sự giảm bớt nghèo đói và những đòi hỏi của công việc xã hội.

K đang gặp gỡ vô số con người khác nhau. Nhiều phụ nữ có cuộc sống hôn nhân phiền muộn tìm kiếm những phỏng vấn với anh, và thật mau lẹ anh thấy được sự không an toàn và những đau khổ chồng chất cuộc sống của một phụ nữgia đình. Trong những nói chuyện trước công chúng anh được đưa ra nhiều câu hỏi về “những bổn phận của một người vợ” và vai trò của hôn nhân. Anh đả kích sự đạo đức giả của xã hội Ấn độ, những giá trị và những luân lý của nó. Anh nói về vị trí của người phụ nữ và sự chi phối thuộc kinh tế của người chồng. “Chỉ một xã hội chết rồi và một xã hội thoái hóa mới nói về bổn phận và những quyền lợi.” Anh hỏi, “Bạn có nhận thấy một người đàn ông mà quả tim của họ trống rỗng? Khuôn mặt anh ấy trở thành xấu xí. Thỉnh thoảng hãy nhìn khuôn mặt của bạn trong một cái gương, nó đã khó coi như thế nào, rối loạn như thế nào.” Anh nói về sự vắng mặt của tình yêu cùng chiều sâu và phong phú của nó. “Để thương yêutrong trắng, thuần khiết, không vấy bẩn.”

Tôi đã đến Delhi trước K. Trước đó, chồng tôi đã chuyển cơ quan chỉ huy đến Delhi và chúng tôi đang ở tại Delhi Gymkhana Club. Bởi vì chủ yếu công việc của tôi ở Bombay, tôi đi lại giữa hai thành phố. Tôi bị phiền muộn ở Poona, cái trí của tôi đã bắt đầu phản kháng. Tôi cảm thấy tôi nên quay lại sống và những hoạt động cũ của tôi, công việc của tôi, những câu lạc bộ của tôi, lề thói vô tận của tôi. Tôi thử cố gắng, nhưng phát giác mình là một người đứng ngoài. Tôi cũng không thể đến gặp K. Mỗi lần tôi gần anh, tôi cảm thấy một bức tường giữa chúng tôi; anh không thể tiếp cận được. Sự cân bằng bên trong của tôi bị nghiêng ngả.

Tôi hỏi K điều gì đã xảy đến cho tôi. Tại Ooty tôi đã cảm thấy bờ mé của một thức dậy. Tôi chỉ cần một bước để nhảy vào trống không. Nhưng bước đó không bao giờ đến, và trước khi tôi có thời gian để nắm bắt cái gì tôi có, tôi đã bị quét vào chiều sâu của sự cô độc. Ở Ooty có hân hoanđam mê của thức dậy mỗi buổi sáng, của thấy K rực sáng cùng ánh mặt trời. Nó giống như thương yêu ánh mặt trời; đầy đam mê, tuy nhiên lại thanh thoát. Tôi đã thoáng thấy những chiều sâu vô hạn và một bao la của thấy. Nó ở lại cùng tôi, sống cùng tôi trong nhiều ngày. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc tôi bị xô đẩy vào những tác động khắc nghiệt của Bombay – những ồn ào của nó, những trục lợi tàn nhẫn, sự xấu xavô vị của sống. Sự suy sụp đột ngột này vào sự đông đúc và bộ máy nghiền của một thành phố bị ô nhiễm, thúc đẩy tôi viết cho Krishnaji, nói rằng sẽ dễ dàng hơn khi khoác vào chiếc áo cà sa.

Nhưng đó không là lý do duy nhất cho sự suy sụp quá mau lẹ của tôi. Lặp đi lặp lại ở Poona tôi hỏi K những lý do cho sự tuyệt vọng, và anh nói, “Tại sao bạn cần đến một lý do? Bạn đang gặp phiền muộn và không ở trong một trạng thái tỉnh táo. Hãy thấy chính bạn trong vực thẳm và bạn sẽ thoát khỏi nó. Lần tới bạn sẽ cảnh giác và thấy rằng bạn không rơi lại vực thẳm.” Nhưng tôi không thể hiểu rõ, và cảm thấy rằng đi đến anh là hoàn toàn vô ích.

Một trong những quyển sách Upanishads nói rằng không đến gần sự thật là điều tốt lành hơn; nhưng, ngay khi đã nghe, bạn phải hành động hay sự thật hành động như một thuốc độc bên trong chính bạn. Krishnamurti nói cùng sự việc: “Hãy tránh xa nếu bạn không nghiêm túc.” Nhưng tôi có nghiêm túc. Tôi chưa bao giờ nghiêm túc như thế. Tôi chưa bao giờ cảm thấy sâu thẳm như thế. Khi tôi sắp rời Poona anh nói với tôi, “Buông bỏ bám chặt của bạn. Tại sao bạn muốn bám chặt quá? Buông nó đi và thấy điều gì xảy ra.”

Khi anh đến Delhi, tôi đi đến gặp anh một mình. Anh bảo với tôi rằng anh đã nằm mơ thấy tôi (anh hiếm khi có những giấc mơ). “Lắng nghe điều gì tôi nói. Tôi sẽ nói như thể tôi là bạn. Tôi là một người Brahmin được sinh ra từ một truyền thống văn hóahọc hành bằng một nền quá khứ của trí năngnhạy cảm. Trong nền quá khứ này có một tính chất rõ rệt của sự nhu nhược, của sự thô thiển. Tôi trải qua thời niên thiếu của tôi trong một ngôi nhà của một công chức. Tôi ăn thịt và bị ép buộc phải chối từ đạo Brahmin của tôi. Tôi đến Châu âu, lập gia đình, có một đứa con, một căn bệnh rất nặng. Tôi bị mù, cuộc sống đã sử dụng tôi và để lại dấu vết của nó trên tôi. Tôi phát triển tham vọngvun đắp sự tàn nhẫn và phủ nhận sự nhạy cảm. Trong gặp gỡ con người tôi đã thấm nhuầnphản ảnh sự thô tục của họ hay sự nhạy cảm của họ. Tôi đã không có thông minh để gặp gỡ sự thô tục bằng thông minh. Sau đó Krishnamurti đến. Thoạt đầu tôi thấy trong điều gì anh phải nói một phương cách để mài bén bộ não của tôi, nhưng chẳng mấy chốc tôi bị trói buộc trong nó. Trong sự ảnh hưởng uy quyền nhất tôi đã biết. Và luôn luôn, mặc dù tôi phủ nhận nền quá khứ Brahmin của tôi, nó ở đó, sự mâu thuẫn cơ bản, nền quá khứ Brahmin không bao giờ được hiểu rõ nhưng lại bị phủ nhận, và thế là tôi luôn luôn trong xung đột.”

Sau đó anh nói, “Bạn thấy bức tranh, những loang lổ, những ánh sáng, những màu sắc, mức độ thô thiển, mức độ nhạy cảm. Bạn cảm thấy gì khi bạn thấy bức tranh như một tổng thể?” Tôi trả lời nó là một hỗn loạn, và hỏi tôi có thể làm gì để giải quyết sự mâu thuẫn. Chắc chắn tôi phải có thể hành động trong sự mâu thuẫn.

Anh nói, “Bạn vẫn còn quan tâm đến hành động. Nhưng bất kỳ hành động nào về phần bạn sẽ có nghĩa thêm vào một chắp vá khác. Tại sao bạn không thể thấy nó? Nó là bạn, cùng tất cả màu sắc và những ánh sáng. Ích lợi của thành kiến và vui thú là gì? Chỉ thâm nhập nó và thấy chính bạn như bạn là, một cách rõ ràng. Vậy thì bạn sẽ không còn bắc cầu cho sự thô thiển và sự nhạy cảm.”

‘Đó là, tôi phải không còn cố gắng để nhạy cảm, khi tôi thô thiển.”

“Không,” Krishnamurti trả lời. “Bạn không thể làm bất kỳ điều gì. Chỉ nhìn ngắm sự thật về bắc cầu của bạn, mà bạn luôn luôn đang làm.” Đây là lần đầu tiên tôi đã nghe anh nói về nền quá khứ và sự cần thiết phải hiểu rõ về nó. Tôi hỏi anh làm thế nào nó có thể hiểu rõ được.

“Thấy rằng nó hiện diện ở đó trong tất cả trọn vẹn của nó, phong phú của nó, hàng ngàn năm ký ức thuộc chủng tộc của nó. Vậy là, lần tới khi nó tự chiếu rọi chính nó, bạn sẽ thấy nó và sẽ có hiểu rõ tức khắc và sự kết thúc của xung đột với nó. Bạn không thể phủ nhận nền quá khứ, bởi vì nó hiện diện ở đó cũng chính xác như cánh tay hay da thịt của bạn. Bạn chỉ có thể hiểu rõ nó, và hiểu rõ nó là được tự do khỏi nó.” Chốc lát sau anh nói, “Điều gì con người cần là sự mãn nguyện trong quả đất, khi nó đã sinh ra một cái cây. Trong một bụi cây, khi nó đã sáng tạo một bông hoa.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26227)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21632)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23410)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14735)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12955)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19851)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13822)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22778)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11989)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12428)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24056)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13737)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21095)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25679)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19256)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23250)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21408)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18341)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14000)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15472)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17889)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21980)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17556)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30964)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28079)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14882)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17161)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22635)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28243)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14027)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17067)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22321)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14178)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21496)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20834)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28538)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15069)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26606)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19300)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31616)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30666)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21025)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26231)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23596)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25641)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25409)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19735)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18493)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17801)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19069)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant