Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8262)
01. “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

 

CHƯƠNG 1

 “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

 


Bị nung nóng bởi mặt trời, những tảng đá như chạm trổ, trong số những tảng đá cổ xưa nhất trong thế giới, nâng niu ngôi làng Mandanapalle ở vùng Chittoor của Andhra Pradesh, Nam Ấn độ. Từ vùng đất thiêng liêng Tirupati qua Rishi Valley đến Anantpur, những quả đồi trải dài có đỉnh được chụp lên bởi những tảng đá láng bóng, nằm rải rác những thung lũng nhỏ. Lượng mưa rất ít, dân số thưa thớt. Những cây me và gul mohar cho những bóng mát và màu sắc sặc sỡ. Nó là mảnh đất thiêng liêng, punysasthal, nơi những huyền bí và những thánh nhân đã sống và đã giảng dạy hàng thế kỷ, thân thể của họ được mai táng ở đó để thánh hóa đất đai. Ở đây, vào ngày 12 tháng 5, 1895, sau nửa đêm ba mươi phút, một người con trai được sinh ra bởi Sanjeevamma, người vợ của Jiddu Narianiah, một công chức trung bình.

 Tổ tiên của Jiddu Krishnamurti, một Brahmin của tầng lớp thấp, có nguồn gốc từ Giddu hay Jiddu, một ngôi làng nằm giữa những cánh đồng lúa phì nhiêu của bờ biển Andhra. Ông nội của Krishnamurti, Gurumurti, cũng là một công chức trung bình; nhưng ông của ông ấy, Ramakrishna, nổi tiếnghọc thức uyên bác của ông, sự hiểu biết của ông về Phạn ngữ và kinh Vedas, có một vị trí quan trọng trong ngành luật pháp của The British East India Company.

 Nhà của Narianiah ở Madanapalle, một trong những vùng bị hạn hán nhiều nhất của Nam Ấn, rất nhỏ; ngột ngạt và có hai tầng, mặt trước nhà chật hẹp hướng về một con đường, chảy dọc theo nó là một đường mương rút nước. Tất cả nước dùng cho nhà của Narianiah được sử dụng từ cái giếng gần bên và được đem về bởi những dụng cụ chuyển nước để trữ trong những vại bằng đồng được đánh bóng hay những thùng bằng đất cất ở trong nhà.

 Krishnamurti được sinh ra bởi Sanjeevamma trong căn phòng puja của nhà bà. Ý nghĩa của điều này đã bị bỏ sót bởi những người viết tiểu sử về Krishnamurti. Đối với một truyền thống của Ấn giáo, sống trong những dãy núi Himalayas có đỉnh phủ tuyết hay trong Kanyakumari ở sâu phía Nam, trong nơi trú ngụ thuộc thành phố hay những ngôi nhà vùng quê, phòng puja là nơi thiêng liêng, trung tâm của ngôi nhà, nơi griha devatas, những vị thần giữ nhà, được thờ phụng; nó là một căn phòng được làm để báo điềm tốt lành cho tương lai với những bông hoa và hương trầm và ngâm nga những câu thần chú thiêng liêng. Căn phòng dành cho những vị thần này chỉ có thể được đi vào sau một nghi thức tắm và mặc những bộ quần áo sạch sẽ. Sinh đẻ, chết chóc, và chu kỳ kinh nguyệt được coi như là sự ô uế của nghi thức. Khi có sinh đẻ và chết chóc, người chủ nhà và gia đình của anh ấy cùng chia sẻ sự ô uế và bị cấm không được thực hiện nghi thức puja hàng ngày; thay vì vậy một Brahmin từ ngôi đền địa phương được mời đến để thực hiện nghi lễ hàng ngày. Điều mà một đứa trẻ nên được sinh ra ở đó là không thể tưởng tượng được.

 Người vợ và cũng là người em họ của Narianiah, Sanjeevamma là một người đàn bà nhân từ và sùng đạo. Bà được cho là có nhãn quan tâm linh, kinh nghiệm, và có thể thấy màu sắc trong những hào quang của con người. Giống như đôi tai của một nhạc sĩ hòa hợp hoàn hảo cùng một nhạc cụ đàn dây, vì vậy như một người mẹ đôi tai của bà hoà hợp cùng những nhịp tim của em bé mà đã chờ đợi trong lò nung của thân thể bà, chẳng mấy chốc sẽ khởi sự con đường của nó qua những cánh cổng đồ sộ của sự sống. Những điềm báo về sự lạ thường của sinh nở này chắc chắn đã trao cho bà cái nhìn tiên tri và sự khuyến khích, nếu không bà không thể thách thức những vị thần như thế.

 Vào đầu buổi tối ngày 11 tháng 5, Sanjeevamma cảm thấy những điềm báo về sự sắp sửa sinh nở đứa trẻ. Đứa trẻ này sẽ là đứa con thứ tám, và bà ý thức rõ ràng những chuẩn bị theo thói quen cần thiết cho sự sinh nở. Thế là bà chuẩn bị căn phòng, hát những bài hát Telugu[1] cho người chồng của bà trong giọng du dương của bà, và nghỉ trên một tấm thảm trong tầng trên của ngôi nhà. Gần về nửa đêm những cơn đau bắt đầu. Bà đánh thức Narianiah, đi đến căn phòng nơi bà đã chuẩn bị, và nằm xuống trên một tấm thảm chờ sinh đứa con. Một người đàn bà địa phương, một người họ hàng thành thạo cho công việc đỡ đẻ, đến giúp đỡ trong khi người chồng chờ bên ngoài. Sanjeevamma không đau đớn nhiều. Suốt giai đoạn đó những từ ngữ duy nhất mà bà bật ra là,“Rama, Rama

 Anjaneya,” một cái tên khác dành cho Hanuman.[2] Vào lúc 12:30, sáng sớm ngày 12 tháng 5, người đỡ đẻ mở cửa và nói với Narianiah, “Sirsodayam, cái đầu nhìn thấy rồi.” Theo truyền thống, đó là khoảnh khắc chính xác của sinh ra đời.

 Trong căn phòng nhỏ xíu được thắp sáng bởi những cây đèn dầu, trong sự hiện diện của ishta devata, thần giữ nhà, Krishnamurti có hơi thở đầu tiên của ông. Từ những không gian được bảo vệ của tử cung, đứa bé đi vào những không gian của thế giới.

 “Người ta được sinh ra trong hư không và người ta được sinh ra là hư không.”

 Sáng hôm sau lá số tử vi của đứa trẻ được tiên đoán bởi Kumara Shrowthulu, một người chiêm tinh nổi tiếng của vùng đó. Ông ấy bảo cho Narianiah rằng đứa trẻ này sẽ là một con người rất vĩ đại. Lá số tử vi rất phức tạp; đứa trẻ sẽ gặp phải nhiều trở ngại trước khi đứa trẻ lớn lên để trở thành một người thầy vĩ đại.

 Suốt mười một ngày của thời kỳ được quy định, đứa trẻ nghỉ ngơi trong một bầu không khí được tái tạo trong môi trường của tử cung. Đứa trẻ nằm trong bóng tối lờ mờ, được ru nhe nhẹ trong một cái nôi vải đặt kế cận người mẹ của đứa trẻ. Giống như tất cả những sinh sản truyền thống của Ấn độ, đường vào ánh sáng chói lòa của mặt trờithế giới của Krishanmurti phải xảy ra dần dần.

 Vào ngày thứ sáu sau khi sinh ra, nghi thức đặt tên được tổ chức. Trong gia đình bị trói buộc bởi truyền thống, chắc chắn đứa con trai thứ tám phải được đặt tên là Krishnamurti, biểu tượng của Krishna, vị thần của người chăn bò mà là đứa trẻ thứ tám.

 Ba năm sau, năm 1898, một cậu trai khác được sinh ra bởi Sanjeevamma. Cậu được đặt tên là Nityanada, “hạnh phúc vĩnh cửu.”

 Khi Krishna được sáu tuổi upanayanama được thực hiện. Đây là một nghi lễ của sự khởi sự vào brahmacharya, thời kỳ của sự kỷ luật trong trắng mà là chặng đầu tiên trong sống của một Brahmin. Nghi lễ xảy ra tại Kadiri, nơi Narianiah đã được thâu nhận trước kia.

 Sợi chỉ xe lại thiêng liêng được choàng quanh hai vai của Krishna và câu thần chú gayatri huyền bí, sự cầu khẩn mặt trời, được thì thầm vào tai của Krishna bởi người cha của cậu. Ông ấy được dạy để lặp lại câu thần chú bằng ngữ điệu, nhấn giọng, và cử chỉ đúng. Chắc chắn ông ấy đã học để lặp lại câu thần chú gayatri với mặt trời vào lúc bình minh và thực hiện những nghi lễ Sandhi vào hoàng hôn, tắm theo nghi lễ, và không bị bất kỳ hình thức nào của sự ô uế. Ông ấy cũng phải được dạy để lặp lại kinh Vedas.

 Theo sự diễn tả của Narianiah, “Nó là một nghi lễ mà những cậu trai Brahmin phải trải qua khi đến thời điểm đưa họ vào thế giới giáo dục. Nó xảy ra giữa tuổi năm hay bảy, tùy theo sức khỏe và khả năng của đứa trẻ. Vì vậy khi Krishna đã đến tuổi đó, một ngày phải được dành ra cho nghi lễ này. Đó là phong tục của chúng tôi phải tổ chức nó thành một lễ hội gia đình, và bạn bè lẫn thân quyến đều được mời dự bữa tối.”

 Khi tất cả mọi người tụ họp, Krishna được tắm và được mặc vào bộ quần áo mới. Sau đó cậu bé được mang vào và đặt trên hai đầu gối của người cha, trong khi bàn tay vươn dài của Narianiah đỡ một cái khay bạc rắc đầy hạt gạo. Mẹ của cậu, đang ngồi bên cạnh Narianiah, kế tiếp cầm ngón trỏ bàn tay phải của cậu, và vẽ ngón tay đó trên gạo từ ngữ thiêng liêng AUM, mà trong bản dịch tiếng Phạn của nó chỉ gồm có một chữ duy nhất – chữ đầu tiên trong mẫu tự chữ cái trong tiếng Phạn và trong tất cả những ngôn ngữ bản xứ.

 “Tiếp theo,” Narianiah nói, “nhẫn của tôi được tháo ra khỏi ngón tay, và được đặt giữa ngón đó và ngón cái của cậu bé; và người vợ của tôi, đang cầm bàn tay nhỏ, lại vẽ từ ngữ thiêng liêng trong ký tự Telugu bằng chiếc nhẫn. Tiếp theo, không dùng nhẫn, chữ đó lại được vẽ ba lần. Sau việc này, những câu thần chú được lặp lại bởi người giáo sĩ chủ lễ để cầu nguyện cho cậu trai được ban tặng trí thông minhtinh thần. Sau đó, dắt theo Krishna, vợ tôi và tôi lái xe đến ngôi đền Narasimhaswami để bày tỏ sự sùng kínhcầu nguyện cho sự thành công trong tương lai của cậu con trai. Từ đó chúng tôi lái xe đến ngôi trường gần nhất, nơi Krishna được giao cho thầy giáo, mà thực hiện, trong cát, cùng nghi lễ vẽ từ ngữ thiêng liêng. Trong khi đó, nhiều em học sinh tụ tập trong lớp học, và chúng tôi phát cho các em những đồ vật đẹp để thết đãi các em. Thế là chúng tôi đã bắt đầu công việc học hành của cậu con trai, theo phong tục của chúng tôi. Sau đó chúng tôi lái xe về nhà và cùng ăn uống với họ hàng và bạn bè của chúng tôi.”

 Krishna và người em trai của cậu Nitya rất gần gũi nhau, nhưng theo bản chất họ hoàn toàn khác biệt. Nitya thông minh lạ thường. Thậm chí “trước thời gian cậu ấy biết nói, khi cậu thấy những bé trai khác đi học, cậu ấy sẽ lấy một cái bảng đá và cây bút chì và đi theo chúng.” Krishnamurti là một đứa trẻ yếu ớt và phải chịu đựng những cơn sốt rét nghiêm trọng. Có một khoảng thời gian cậu bị những cơn co giật, và trong nguyên một năm không được đến trường bởi vì bị chảy máu ở mũi và miệng.

 Krishnamurti không hứng thú mấy trong trường học và công việc học vấn, nhưng lại ưa thích trải qua nhiều tiếng đồng hồ nhìn ngắm những đám mây, những con ong, những con kiến và những con côn trùng, và nhìn vào những khoảng không mênh mông. Cậu được mọi người miêu tảbệnh hoạntinh thần không phát triển. Trạng thái mơ màng của cậu, chẳng nói bao nhiêu lời, không quan tâm những công việc của thế gian, và mắt nhìn chằm chằm vào thế giới phía bên ngoài cửa sổ, thấy xa xa khỏi những đường chân trời, bị nhận định sai lầm là chậm phát triển về trí óc bởi người thầy giáo.

 Krishnamurti trẻ tuổi, bất kể trạng thái có vẻ mơ màng của cậu, rất thích thú tất cả những dụng cụ thuộc máy móc. Có một ngày Krishna trốn học. Đi tìm cậu, người mẹ phát giác cậu ở một mình trong phòng, đang mê mải tháo tung cái đồng hồ. Cậu sẽ không rời khỏi phòng, và không ăn uống gì cả cho đến lúc cậu đã tháo rời mọi bộ phận của cái đồng hồ, sau khi đã hiểu rõvận hành ra sao, đặt máy móc trở lại vị trí cũ của nó.

 Cậu trai Krishna quyến luyến người mẹ nhiều, người dường như nhận biết được bản chất độc đáo của con trai bà. Sanjeevamma chết năm 1905, và cái chết của bà khiến cho cậu bị rối loạn và lơ đãng. Nhiều năm sau, mùa hè năm 1913, Krishnamurti quyết định viết tự truyện của ông, khi ông ở Paris. Ông đặt cho nó tựa đề “Năm mươi năm cuộc đời của tôi,” dự tính khi những năm qua đi sẽ “thêm vào những việc mới xảy ra, và đến năm 1975 tôi sẽ sắp xếp lại tựa đề.” Tiếc thay, câu chuyện phải hủy bỏ sau vài trang đầu tiên. Tuy nhiên, bản thảo ngắn tiết lộ nhiều hiểu biết lý thú về những cảm giác và cuộc sống lúc ban đầu cùng người mẹ của cậu. Lúc mười tám tuổi những kỷ niệm về thời niên thiếu của cậu vẫn còn rõ ràng, và có một thương tâm khi cậu diễn tả lại những ảo tưởng về người mẹ sau cái chết của bà:

 

Những kỷ niệm hạnh phúc nhất về thời niên thiếu của tôi vây quanh người mẹ yêu quý, người trao cho chúng tôi tất cả sự chăm sóc thương yêutiêu biểu nơi những người mẹ Ấn độ. Tôi không thể nói rằng tôi thực sự hạnh phúc nơi trường học, bởi vì những thầy giáo không tử tế lắm và bắt tôi làm những bài học quá khó đối với tôi. Tôi thích những trò chơi miễn là chúng không quá mạnh mẽ, bởi vì sức khoẻ tôi yếu lắm. Cái chết của mẹ tôi khiến cho anh em tôi mất đi người thương yêu và chăm sóc cho chúng tôi nhiều nhất, và cha tôi quá bận rộn bởi công việc của ông nên không lưu ý đến chúng tôi nhiều được. Tôi sống một sống thông thường như mọi đứa trẻ bình thường khác của Ấn độ cho đến khi tôi đến Adyar năm 1908 [thật ra nó là tháng giêng năm 1909].

 Đối với tôi, Adyar có một quan tâm đặc biệt bởi vì cha tôi thường tham dự những hội nghị của Tổ chức Thông thái ở đó. Cha cũng tổ chức những gặp gỡ trong nhà của chúng tôi ở Mandanapalle cho việc học hành của Theosophy và tôi hiểu về Adyar từ cha mẹ. Mẹ tôi có một căn phòng puja nơi mẹ đều đặn thờ cúng, trong căn phòng là những bức tranh của những vị thần Ấn độ và cũng có cả một bức ảnh của Mrs. Besant trong trang phục Ấn độ đang ngồi bắt chéo chân trên một chowki hay cái đệm nhỏ phủ da hổ.

Tôi thường ở nhà trong khi anh em của tôi đi học bởi vì tôi bị sốt nhiều lắm – thật ra hầu như mỗi ngày, và tôi thường đi vào căn phòng puja khoảng buổi trưa khi mẹ thực hiện những nghi lễ hàng ngày. Lúc đó mẹ sẽ kể cho tôi về Mrs. Besant và về Nghiệp và Luân hồi và cũng đọc cho tôi từ quyển kinh Mahabharata Ramayana và từ những quyển kinh Ấn độ khác. Tôi chỉ vào khoảng bảy hay tám tuổi, vì vậy tôi không thể hiểu nhiều lắm, nhưng tôi nghĩ tôi đã cảm thấy rất nhiều rằng thật ra tôi không thể hiểu được.

Viết về mẹ tôi nhắc tôi nhớ lại vài chuyện xảy ra mà có lẽ đáng được đề cập. Trong chừng mực nào đó, chắc chắn mẹ tôi sống tâm linh nhiều, và thường thấy người chị của tôi đã chết cách đây khoảng hai hay ba năm. Họ nói chuyện với nhau và có một nơi đặc biệt trong vườn nơi chị tôi thường đến. Mẹ tôi luôn luôn biết khi nào chị tôi ở đó và thỉnh thoảng dắt tôi đến nơi đó và sẽ hỏi tôi liệu tôi cũng thấy người chị chứ. Thoạt đầu tôi cười khi nghe như thế nhưng mẹ bảo tôi nhìn kỹ lại và sau đó thỉnh thoảng tôi đã thấy chị tôi. Và từ lúc đó trở đi tôi luôn luôn có thể thấy chị tôi. Tôi phải thú nhận rằng tôi sợ lắm, bởi vì tôi đã thấy chị khi chết và thân thể của chị khi hỏa thiêu. Tôi thường chạy ào về phía mẹ tôi và mẹ bảo với tôi rằng không có lý do gì phải sợ hãi. Tôi là thành viên duy nhất trong gia đình, ngoại trừ mẹ tôi, thấy những cảnh này, mặc dù tất cả đều tin chúng. Mẹ tôi cũng có thể thấy những hào quang của con người, và thỉnh thoảng tôi cũng thấy chúng. Tôi không nghĩ mẹ biết ý nghĩa của những màu sắc đó. Có nhiều việc xảy ra khác nữa cũng cùng bản chất nhưng lúc này tôi không nhớ rõ. Chúng tôi thường kể chuyện về Sri Krishna mà tôi cảm thấy cuốn hút một cách đặc biệtmột lần tôi hỏi mẹ tại sao ông ấy luôn luôn được tượng trưng trong màu sắc là màu xanh. Mẹ bảo cho tôi rằng hào quang của Ngài là màu xanh nhưng tôi không hiểu làm thế nào mẹ biết điều đó.

Mẹ tôi rất nhân từ. Mẹ tử tế với những cậu trai nghèo và đều đặn cung cấp lương thực cho những người thuộc tầng lớp riêng của bà. Mỗi cậu trai đến nhà chúng tôi vào một ngày đặc biệt trong tuần, và đi tới những nhà khác vào những ngày khác. Hàng ngày chúng tôi có những người ăn xin thường đến nhà từ rất xa để nhận gạo, dal thỉnh thoảng quần áo.

Trước khi đến Adyar, anh em tôi theo học tại nhiều trường, trường học thú vị nhất là ngôi trường ở Madanapalle. Đầu tiên tôi học trường này khi tôi là một đứa bé, bởi vì tôi được sinh ra ở Mandanapalle. Cha tôi là một viên chức chính phủ, ông liên tục được chuyển đi từ nơi này sang nơi khác, và vì vậy sự giáo dục của chúng tôi bị gián đoạn nhiều.

Sau cái chết của mẹ tôi, những vấn đề càng tồi tệ thêm, bởi vì thực sự không còn ai chăm sóc chúng tôi. Liên quan đến cái chết của mẹ, tôi được phép đề cập rằng tôi thấy mẹ thường xuyên sau khi mẹ chết, tôi nhớ có một lần đi theo hình bóng của mẹ tôi khi nó đi lên lầu. Tôi vươn tay ra và dường như nắm được áo của mẹ, nhưng mẹ biến mất ngay khi chúng tôi đến đầu cầu thang. Chỉ mới cách đây một thời gian ngắn, tôi thường thấy mẹ theo sau khi tôi đi học. Tôi đặc biệt nhớ điều này bởi vì tôi nghe âm thanh của những cái vòng mà những người đàn bà Ấn độ thường đeo nơi cổ tay. Thoạt đầu tôi thường quay đầu nhìn lại hơi hơi sợ hãi và tôi thấy hình dáng mờ mờ của cái áo mẹ hay mặc và một phần của khuôn mặt. Điều này xảy ra thường xuyên khi tôi đi khỏi nhà.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26276)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21680)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23467)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14761)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12975)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19882)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13833)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22796)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12004)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24120)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21110)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25714)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19267)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23271)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21415)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18347)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14016)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15502)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17903)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21994)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17585)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 31010)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28131)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14907)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17183)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22648)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28319)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14050)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17079)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22331)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14195)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21503)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20849)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28591)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15093)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26622)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19319)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31666)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30697)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21040)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26321)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23620)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25661)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25483)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19752)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18523)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17820)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19096)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant