Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

47. “Không Khởi đầu, Không Kết thúc”: Krishnamurti Chín mươi tuổi

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8780)
47. “Không Khởi đầu, Không Kết thúc”: Krishnamurti Chín mươi tuổi

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 47

“Không Khởi đầu, Không Kết thúc”:

Krishnamurti Chín mươi tuổi

T

rong Bhagavad Gita, Arjuna hỏi Krishna về bản chất của Hiện diện soi sáng, bất biến. “Ông đi như thế nào, ông nói như thế nào, ông cư xử như thế nào?”

 Cùng câu hỏi được đưa ra bởi nhiều người đã gặp và đã nghe Krishnaji nói. Có lẽ chương này cung cấp vài đáp án cho nghi vấn, và tuy nhiên nó vẫn còn là một đáp án không trọn vẹn, bởi vì sự huyền bí của Krishnamurti vẫn còn không thể hiểu rõ được.

 Chín mươi tuổi, ngày của Krishnamurti hơi khác biệt những ngày suốt bốn mươi năm. Ở Ấn độ, anh thức dậy lúc mặt trời mọc, nằm trong giường, mọi giác quan của thân thể tỉnh táo, nhưng không có một suy nghĩ nào nảy ra cho đến khi có một đang đến, từ những khoảng cách vô tận. Anh bắt đầu buổi sáng bằng những vận động yoga asanas và pranayams. Suốt ba mươi lăm phút anh làm pranayamas, bài tập hít thở của anh, và bốn mươi lăm phút kế tiếp được dành cho yoga asanas, những tư thế thuộc thân thểhòa hợp thân thể; những dây thần kinh, những cơ bắp và những tế bào mà hình thành mô da, mở toang mọi tế bào của thân thể để cho nó hít thở tự nhiênhòa hợp.

 Tám giờ, Krishnamurti ăn sáng gồm có trái cây, bánh mì nướng, bơ, và bột lúa mì lứt. Thỉnh thoảng bữa sáng của anh gồm có idlis hay dosas của Nam Ấn, bánh gạo hấp và tương ớt dừa. Tại bàn ăn sáng ở Ấn độ những người thân thiết của anh tập họp bàn luận về giáo dục và những trường học, ý thức, hạt giống của tách rời trong con người, máy tính, và vai trò của sự thông minh nhân tạo. Anh hỏi những tin tức của thế gới và của Ấn độ. Tình hình quốc gia được bàn luận tự do; bạo lực, tham nhũng, sự thoái hóa của những giá trị; tương lai của con người hay sự thay đổi của cái trí con người. Mỗi vấn đề được đưa ra và được tìm hiểu; mọi người đều tham gia; một ý thức của trật tự và yên lặng tỏa khắp ngay cả những bàn luận.

 Anh hoàn toàn giống như trẻ con trong thái độ của anh đối với những tình hình, đặc biệt về chính trị: nhưng một nghiêm túc lạ thường lại hiển hiện rõ ràng trong quan tâm của anh đến cái tinh thần hay những không gian bên trong cái trí. Anh thường xuyên ngừng lại, thả cho cái trí nghỉ ngơi cùng những nghi vấn, phản ứng bằng từ bi và cao quý.

 Khi anh sẽ thực hiện những đối thoại sáng của anh, thời gian ăn sáng rút lại. Chúng tôi giải tán và gặp lại lúc 9:30, khi nhóm người nhỏ tập họp để tham gia trong những đối thoại. Những bàn luận tiếp tục đến mười một giờ, tiếp theo những cá thể có những đau khổ hay những vấn đề đặc biệt có thể nói chuyện cùng anh. Thỉnh thoảng anh đưa họ vào phòng riêng của anh trong vài phút. Khi không có những bàn luận nhóm, những nói chuyện cùng những người thân hữu của anh tiếp tục khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Chúng tôi bàn luận về chết, bản chất của Thượng đế, vấn đề của người quan sát và vật được quan sát. Một số trong những thấu triệt thăm thẳm nhất được bộc lộ tại những dịp này.

 Khoảng mười một giờ rưỡi, anh về phòng riêng của anh và nằm nghỉ khoảng nửa tiếng cùng những tờ báo Economist, Time, hay Newsweek, những quyển sách tranh của cây cối, núi non, chim chóc, hay thú vật, hay một quyển tiểu thuyết huyền bí. Hiếm khi nào anh đọc những quyển sách quan trọng, nhưng anh được thông tin rõ ràng về tình hình thế giới, về những tiến bộ trong khoa học và công nghệ, và những qui trình thoái hóa đang xói mòn con người. Vào buổi trưa anh có một xoa bóp bằng dầu và tắm nước rất nóng. Ăn trưa khoảng một giờ. Anh dùng thức ăn Ấn độ, nhưng không ăn món chiên, và rất ít ngọt. Anh thích món dưa chua cay và cho phép anh thưởng thức chút ít. Lại nữa tại giờ ăn trưa có những bàn luận, và những người khách thường được mời.

 Đàm thoại thay đổi từ những tình hình quốc tế sang những khám phá khoa học, chiến tranh, giải trừ vũ khí hạt nhân và những vấn đề không thể giải quyết được của nó. Krishnaji có một hiếu kỳ mãnh liệt và những câu hỏi sâu sắc. Những khám phá mới trong khoa học cuốn hút anh. Thỉnh thoảng anh tiên đoán và thâm nhập vào tương lai. Những câu nói của anh đi trước thời gian nhiều. Anh có những thấu triệt vào sự quan trọng của những sự kiện thế giới và có thể liên quan nó đến một tổng thể toàn cầu. Anh thường hỏi những người khách, “Việc gì đang xảy ra trong quốc gia? Tại sao nó mất đi tất cả sáng tạo? Không trả lời nào làm hài lòng anh. Cá thể nghiêm túc được thúc bách để nắm chặt nghi vấn không-đáp án phía bên trong và thế là thức dậy những hàm ý của nó. Nghi vấn của sự thoái hóa trong những qui trình bên trong phải được thâm nhập và cái trí phải ở nguyên cùng nghi vấn, nghiền ngẫm trong nó.

 Khoảng thời gian của sự chú ý của anh kéo dài lâu lắm. Có một lần anh nói với tôi rằng vài nghi vấn phải được ấp ủ vĩnh viễn trong cái trí.

 Tại bữa ăn trưa, Krishnamurti tiếp tục nghi vấn anh đã bàn luận tại bàn ăn sáng, và thỉnh thoảng anh kể những câu chuyện – những giai thoại về những đụng đầu động vật hoang dã của anh, hay những câu chuyện về St. Peter và thiên đàng địa ngục, nước Nga và những ủy viên chính trị, mà anh lặp lại đầy hùng biện, say mê, và hài hước. Anh hoàn toàn không có chút hiểm độc nào. Với những người lạ anh nhút nhát, và người nào khác phải lấp đầy những yên lặng bối rối.

 Trong nhiều năm anh đã gặp gỡ vô số người. Những khất sĩ, những thầy tu Phật giáo, siddhas, những yogi lang thang hội tụ nơi anh để tìm kiếm những đáp án hay sự an ủi. Anh không bao giờ khước từ gặp họ. Chiếc áo cà sa hay nâu sòng của những người tu khổ hạnh khơi dậy từ bi vô hạn bên trong anh. Đầu những năm 1970, hai thầy tu đạo Jana đã bắt đầu viếng thăm anh hàng năm. Cuộc hẹn của họ phải được cố định từ một năm trước, với địa điểm, ngày tháng, và thời gian chính xác. Trong suốt mùa Chaturmas, bốn tháng của gió mùa, những thầy tu nghỉ ngơi và tất cả sự lang thang ngừng lại. Sau khi bốn tháng qua rồi, hai thầy tu sẽ bắt đầu hành hương của họ để gặp Krishanji, thậm chí phải đi bộ bảy trăm dặm để đến Bombay đúng ngày đã hẹn. Một trong hai thầy tu bị bệnh bạch cầu, người khác còn rất trẻ và có đôi mắt đẹp. Họ đeo mặt nạ bằng vải cotton trắng che miệng của họ, để bảo đảm rằng ngay cả khi hít thở cũng không hãm hại một côn trùng. Họ không biết nói tiếng Anh, và tôi phải thông ngôn điều gì được nói. Tôi ngồi trên bục cửa ra vào, trong khi họ chia sẻ một miếng thảm cùng Krishnaji bởi vì theo luật lệ tu họ không được phép ngồi trên cùng miếng thảm với một phụ nữ. Họ vô cùng đam mê trong những nghi vấn của họ. Khi còn trẻ họ đã nghiêm khắc từ bỏ thân thể của họ, và sự giải thoát được hứa hẹn vẫn không hiện diện. Krishnaji rất ân cần với họ và những bàn luận lâu diễn ra. Đến một năm, hai thầy tu che mặt này không xuất hiện cho cuộc hẹn của họ. Rất khó khăn để giải thích việc gì đã xảy ra. Có lẽ người đứng đầu giáo hội của họ, nhận biết một phản kháng chống lại uy quyền, đã từ chối cho phép họ thực hiện những gặp gỡ cùng Krishnaji.

 Sau bữa ăn trưa, Krishnaji nghỉ ngơi. Và vào khoảng bốn giờ anh bắt đầu gặp lại mọi người. Một phụ nữ mù lòa đến, và anh đặt hai bàn tay của anh trên hai mắt của bà. Một nguời viếng thăm vừa mất một người con ngồi cùng anh và anh lau nước mắt tượng trưng cho bà, chữa trị cho bà phía bên trong; một người đàn ông trẻ, bị hoang mang, bị lạc lõng trong thế giới hung bạo này, tìm kiếm những đáp án.

 Bắt đầu cuối những năm 1970, anh gặp gỡ ít người lại, nhưng lúc chín mươi tuổi anh lại sẵn sàng tiếp cận những người tìm kiếm những đáp án nơi anh; anh không bao giờ đóng cửa với bất kỳ ai – những người trẻ có những ảo tưởng; những phụ nữ bị đau khổ; những thanh thiếu niên; những người già nua; những người mù lòa. Không bao giờ anh quá bận rộn hay quá mệt mỏi.

 Những lời giảng và tên của anh được biết đến khắp quốc gia, trong số những thiền việndãy núi Himalayas cũng như những học viện. Những người Phật giáoẤn độ vẫn còn nói về anh như một người thầy vĩ đại trong truyền thống Nagarjuna; những đạo sư Hindu và những sadhus nói về anh như một hiện diện vĩ đại được giải thoát trong truyền thống Advaita hay không-phân hai. Họ công nhận anh như một người thầy thăm thẳm của thời đại.

 Khi mặt trời sắp sửa lặn, anh đi dạo. Ở tuổi chín mươi nhưng sải chân anh vẫn còn dài, thân thể của anh vẫn còn cứng cáp và thẳng đứng. Những người bạn gần gũi của anh, con cái và cháu chắt của họ dạo bộ cùng anh. Thỉnh thoảng anh cầm tay một em bé và bước đi đùa giỡn cùng em. Anh đi ba dặm, hít thở trong quả đất, cây cối, lắng nghe những âm thanh xa xôi. Có rất ít nói chuyện. Thỉnh thoảng anh thích ở một mình, cái trí của anh thật xa xôi. Anh nói rằng không một suy nghĩ nào hiện diện trong cái trí của anh suốt những dạo bộ này.

 Về nhà, anh tắm rửa và thực hiện chút ít pranayam. Anh dùng bữa tối nhẹ – salad, trái cây, đậu, canh, rau. Vào những dịp hiếm hoi anh ngồi tại bàn ăn tối cùng một ít người bạn và những hàm ý của một vĩnh cửu vượt khỏi cái trí. Hai bàn tay đảm đương vai trò của người thầy. Giọng nói của anh thay đổi, chứa đầy quyền năng và kèm theo những cuồn cuộn của năng lượng; những yên lặng tràn vào căn phòng.

 Một con sông của sự yên tĩnh trôi nổi trong anh. Cái trí của anh không bao giờ cố định. Anh sẵn sàng lắng nghe bất kỳ phê bình nào. Tôi nhớ lại một ngày vào năm 1978 ở Colombo khi anh và tôi đang ở trong cùng căn nhà. Anh rất bồn chồn. Tôi nói với anh, “Thưa anh, anh bị khích động.” Anh không trả lời tôi. Chúng tôi bắt đầu bàn luận điều gì khác. Vào buổi tối tại bữa ăn, anh quay về tôi và nói, “Bạn nói tôi bị khích động. Trưa nay tôi đem theo nghi vấn lên giường cùng tôi. Tôi tự hỏi mình, ‘Tôi bị khích động sao? Liệu do bởi sự phụ thuộc?’ Và bỗng nhiên tôi thấy nó. Tìm kiếm một đáp án là gieo mầm gốc rễ của khích động trong mảnh đất của cái trí; và nó kết thúc. Tôi sẽ không bị khích động nữa. Tôi đã nhìn ngắm và lắng nghe mọi thứ, thân thể của tôi, cái trí của tôi, để lật tung bất kỳ dấu vết nào của sự khích động.”

 Anh khoáng đạt với tất cả những thách thức. Anh không bao giờ ngừng quan sát, lắng nghe, chất vấn. Cái trí của Krishnaji bám vào chẳng bao nhiêu biểu tượng, tuy nhiên anh có một gắn kết thuộc cá nhân gần gũi cùng những con sông. Năm 1961, đang nói chuyện ở Bombay, anh miêu tả sông Ganga: “Nó có lẽ có một khởi đầu và một kết thúc. Nhưng khởi đầu không là con sông, kết thúc không là con sông. Con sông là sự trôi chảy ở chính giữa. Nó chảy qua những ngôi làng và những thị trấn, mọi thứ được cuốn vào nó. Nó bị ô uế, rác rưởi và nước bẩn được trút vào nó, một vài dặm sau nó đã tự làm tinh khiết lại. Nó là con sông trong đó mọi thứ sống, con cá dưới nướccon người uống nước phía trên. Nó là con sông. Đằng sau nó là áp lực khổng lồ của nước, và chính tiến hành tự-tinh lọc này mới là con sông. Cái trí hồn nhiên giống con sông đó. Nó không-khởi đầu, không-kết thúc – không-thời gian.”

 Anh không lãng phí năng lượng khi bước đi, nói chuyện, hay vận hành tại những bận rộn không hợp lý – đánh giày, nhặt một cục đá và quăng nó khỏi lối đi. Khi anh già, những run rẩy nơi hai bàn tay gia tăng, sự phản ứng của thân thể nhạy cảm cao độ đến thế giới của ồn ào và ô uế. Anh thường đau đớn bởi những bệnh tật huyền bí. Anh bị mê sảng, giọng nói của anh thay đổi, thỉnh thoảng anh trở thành một đứa trẻ, anh hỏi những câu hỏi lạ lùng, ngất xỉu dễ dàng, đặc biệt khi anh gần gũi những người mà anh tin cậy; anh thường tự chữa trị lấy bệnh tật.

 Sự liên hệ của anh cùng thiên nhiên, cây cối, những tảng đá và quả đất có ý nghĩa đặc biệt; anh có khả năng thâm nhập vào những không gian bên trong thiên nhiên, để cảm thấy sự sống chuyển động. Sau đó, anh bắt đầu nói về âm thanh vang vọng phía bên trong một cái cây, khi tất cả âm thanh bên ngoài kết thúc.

 Thú vật và chim chóc tin cậy anh. Tôi đã thấy anh ngồi một mình trong vườn rải gạo trên cỏ; chim chóc mổ những hạt gạo luẩn quẩn cách anh vài inch, và vài con còn đậu cả trên vai anh. Tự diễn tả về chính anh, anh trích dẫn sai lầm câu nói của Browning: “nhút nhát như con sóc, bướng bỉnh như con chim nhạn.”

 Anh ngủ lúc mười giờ ba mươi. Ngay trước khi ngủ toàn bộ ban ngày và hành động của anh trôi qua mau lẹ trong cái trí của anh; trong một lóe sáng nguyên ngày và những sự kiện của nó và tất cả những ngày hôm qua được xóa sạch. Trong giấc ngủ, thân thể của Krishnaji, giống như một con chim, gói trọn vào chính nó. Anh không thích bị đánh thức đột ngột. Anh nói anh hiếm khi nào nằm mơ. Khi anh thức dậy hầu như không có nếp nhăn nào trên khăn trải giường.

 Anh sẵn sàng thử qua những điều trị Ayurvedic và dược thảo; anh né tránh bất kỳ thuốc men hiện đại nào. Anh có những thích thú nhất thời về thức ăn; thỉnh thoảng anh trộn sữa vào nước cam, vào những lần khác anh lại bỏ uống sữa; có khi anh lại sống dựa vào thức ăn sống. Những thích thú nhất thời này làm cho bạn bè cười cợt anh. Nhưng anh không bao giờ cho phép bất kỳ ai sờ chạm vào chân anh. Nếu có ai thực hiện, anh cúi xuống và sờ chạm chân người đó lại.

 Tại những nói chuyện trước công chúng, một số được tham dự bởi khoảng bảy ngàn người, anh vẫn mặc một dhotti rộng viền đỏ và một robe dài màu mật ong. Krishnaji đi bộ đến bục giảng được vây quanh bởi những con người nhưng không bị tiếp xúc bởi họ. Khi anh ngồi trên bục giảng, sự hiện diện của Krishnaji vươn ra và cuốn hút những người lắng nghe gần gũi anh.

 Anh bắt đầu nói. Lưng thẳng đứng, tiếng nói rõ ràng, cho phép mọi sắc thái nở hoa. Khuôn mặt không bị tiếp xúc bởi thời gian. Hai bàn tay của anh để trên đùi; thỉnh thoảng chúng chuyển động, thực hiện những cử động tượng trưng, giống như những nụ hoa nở ra để tiếp nhận ánh sáng. Suốt gần hai tiếng đồng hồ những người lắng nghe yên lặng, hầu như không có bất kỳ chuyển động nào. Khi nói chuyện chấm dứt, Kishnaji ngồi yên lặng khoảng một phút, sau đó chấp hai bàn tay của anh lại để bày tỏ sự thành kính và những đám đông đứng dậy tiến về anh. Thân thể của anh run rẩy cùng năng lượng đã trôi chảy qua nó. Anh vươn dài cả hai bàn tay và cho phép chúng được cầm bởi những người có thể đến gần anh. Chầm chậm anh tự gỡ tay của họ ra.

 Krishnaji bước xuống bục giảng. Những con người dồn ép vào con đường nhỏ xíu mà anh sẽ đi qua, họ cúi xuống chạm chân anh, anh chạm những khuôn mặt của họ bằng hai bàn tay. Anh không rút hai tay lại, nhưng cứ thả cho chúng thõng xuống hai bên suốt lối ra. Giống như một con sư tử anh bước đi, từ từ, cùng sự chững chạc vô cùng. Hai mắt chuyển động gặp gỡ hàng trăm cặp mắt đang vây quanh anh. Cảnh tán loạn dường như không tránh khỏi, nhưng sự yên lặng trong hiện diện của anh sáng tạo trật tự. Những con người lùi lại. Anh bước đi một mình. Trong xe hơi, khi những người tháp tùng của anh cố gắng quay cửa kính xe lên, anh bảo họ ngừng. Hai tay của anh vươn ra ngoài qua cửa. Suốt con đường ra đến cổng, những người đàn ông và đàn bà dồn ép vào xe, chạm vào hai bàn tay của anh, đặt chúng trên hai mắt của họ. Một người cảnh sát, đang thấy đám đông dồn ép, ra lệnh cho họ lùi lại. Krishnaji ngừng ông ấy lại, cầm tay ông ấy và nắm chặt nó. Người cảnh sát hất cây dùi cui qua một bên và cúi gập người dưới chân của Krishnaji. Krishnaji nâng ông ấy lên và, vẫn còn cầm tay của ông ấy, bước vào xe hơi. Khi xe chạy, người cảnh sát chạy theo, không chịu buông tay của anh ra.

 Trẻ em chờ tại căn hộ trên Peddar Road cùng một vòng hoa hồng, hoa nhài, những hạt hoa có hình dạng đá quý ruby, emeral, pearl nhỏ xíu đan quyện vào nhau có mùi thơm ngát. Anh nhận nó đầy chân tình, quàng nó vào cổ trong chốc lát trước khi trao nó lại cho những đứa trẻ đứng gần.

 Ở gần anh luôn luôn khó khăn lắm. Anh rực sáng và những thân thể của những người gần bên phải mất chút ít thời gian để quen thuộc bởi sự hiện diện của anh. Thỉnh thoảng anh vặn hỏi những người bạn của anh, đòi hỏi họ phải chú ý và quan sát. Anh quan sát cẩn thận để xem thử liệu họ phản ứng mạnh mẽ đối với những con người hay những câu nói. Những cái trí thoái hóa không thể chần chừ loanh quanh anh – người ta hoặc chuyển động hoặc bị bỏ lại đằng sau. Năng lượng cuồn cuộn đang trôi chảy, người ta phải thuộc về nó hay không có nơi chỗ nào.

 Thân thể của anh yếu đuối, nhưng cái trí của anh không bao giờ trì trệ. Anh đã nói rằng khi anh rất già, một năng lượng vô hạn vận hành qua anh. Sự cấp bách đã gia tăng, vì thế sự thúc đẩy cũng vậy. Dường như không gì khiến cho anh mệt mỏi. Anh thúc đẩy thân thể, đi nhanh hơn, tự thử nghiệm, đến độ hầu hết mọi người bằng nửa tuổi không thể bắt kịp anh. Chỉ khi nào anh không làm gì cả, nằm trên giường, trông anh mới yếu ớtgià nua. Hai bàn tay của anh run rẩy, thân thể của anh co lại. Nhưng trong bàn luận, tại bữa ăn sáng hay trưa, trên những nói chuyện của anh, mọi nhăn nhúm đều biến mất. Làn da trong mờ, nó giống như lâng lâng siêu thoát, được chiếu sáng từ bên trong.

 Khi chín mươi tuổi, Krishnaji vẫn tiếp tục đi lại, nói chuyện, tìm kiếm những cái trí mà thức dậy và có thể nhận biết bằng sự rõ ràng. Những nhận biết như thế, nở hoa mà không có bóng, thay đổi bộ não.

 Năm 1980, Krishnaji bảo với tôi rằng khi anh không còn nói chuyện, thân thể sẽ chết. Thân thể chỉ có một mục đích: phơi bày lời giảng.




[1] Một thành viên nổi tiếng của Congress Party và Chủ tịch của Indian National Congress trong nhiều năm, Kripalani là một người lãnh đạo thâm niên trong sự đấu tranh tự do chống lại sự cai trị của người Anh.

[2] Được sinh ra trong một gia đình Brahmin, được tự do khỏi mọi nghi lễniềm tin vẫn bám rễ trong di sản Ấn độ, được giáo dục ở Anh, đối với K tôi tượng trưng cho một cái trí mà có thể bắc một cây cầu giữa phương Tây và phương Đông.

[3] Lễ hội của những hoạt động Ấn độ, được tổ chức bởi chính phủ Ấn độ là một sự kiện văn hóa chính gồm có nhảy múa, âm nhạc, kịch nghệ, những triển lãm của nghệ thuật nông thôn và cổ điểnđời sống, khoa học và công nghệ, những người trình diễn đường phố, những hội thảo, những phim ảnh và vân vân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26216)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21624)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12952)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19827)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13819)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22777)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11987)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12425)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24045)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13733)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25646)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19248)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23237)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21405)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18330)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15461)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17877)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21964)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17542)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28074)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17159)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22623)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28231)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14015)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17060)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22312)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14162)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21492)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20829)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28531)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15062)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26597)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19292)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31604)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30652)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21024)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23578)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25622)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25394)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19732)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18484)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17797)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19063)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant