Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

44. “Cái trí tốt lành”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8579)
44. “Cái trí tốt lành”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 44

“Cái trí tốt lành”

K

hi ở Bombay tháng giêng năm 1983, Krishnaji bắt đầu nói về “cái trí tốt lành.” Nandini và tôi đang dùng bữa tối cùng anh. Buổi chiều lúc còn sớm trong nói chuyện của anh, anh đã hỏi, “Bạn quan sát chuyển động bao la của sự sống như thế nào? Liệu bạn thấy rằng bạn là một con ngườiliên hệ với tất cả những con người? Thân thể không tách rời. Nó không bao giờ nói, ‘Tôi là.’ Chính sự suy nghĩ mới gây tách rời.” Anh đã và đang nói về sự hỗn loạn trong thế giới, và hỏi liệu con người có khi nào tìm hiểu tất cả những gốc rễ của sự hỗn loạn. Bạn tiếp cận vấn đề như thế nào? Làm thế nào bạn tiếp xúc cùng một vấn đề như thế?” Anh đang cuốn hút chúng tôi hiệp thông cùng cái trí của anh. “Liệu bạn có thể gần gũi và khoáng đạt với câu hỏi? Nhưng nếu bạn tránh xa câu hỏi, bạn không khoáng đạt, bạn không hiểu rõ câu hỏi. Liệu bạn có thể tiếp cận câu hỏi mà không có phương hướng, không có động cơ? Động cơ gây biến dạng sự nhận biết. Muốn tìm ra gốc rễ của sự hỗn loạn là gì, cái trí phải được tự do.”

 K nói với chúng tôi, “Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng cái trí tốt lành là một cái trí đã đọc nhiều, chất đầy hiểu biết về nhiều sự việc. Một cái trí giống như cái trí của Aldous Huxley, của Gerald Heard, và của những người khác – họ có những cái trí bách khoa. Ở Ấn độ, liệu cái trí tốt lành sẽ là cái trí Brahminic? Tôi đang sử dụng từ ngữ ‘Brahminic’ để bao gồm dòng chảy mà đã vun đắp cái trí qua hàng thế kỷ, để diễn tả một bộ não mà đã trở nên rất sắc bén, nhưng đã không mất đi chất lượng của chiều sâu phía bên trong nó. Bạn có thể làm một dụng cụ rất sắc bén; nó có thể cắt, nhưng nó cũng phải được sử dụng cho những vật tinh vi. Bạn hiểu chứ? Liệu một cái trí như thế là một cái trí tốt lành?” Anh ngừng. “Một cái trí tốt lành phải liên quan đến hành động, đến sự liên hệ. Nó phải liên quan đến chiều sâu. Những người khoa học vĩ đại thỉnh thoảng theo những sống tầm thường nhất. Họ đầy tham vọng, tham lam, họ đấu tranh lẫn nhau cho vị trí và sự công nhận. Liệu bạn sẽ nói họ có những cái trí tốt lành?”

 Tôi trả lời, “Một cái trí tốt lành không có nghĩa một sống tốt lành. Người khoa học có lẽ là một người khoa học vĩ đại, nhưng như một con người, anh ấy có lẽ là một thảm họa. Anh thấy, thưa anh, một cái trí thực sự tốt lành phải có thể tự ấp ủ phía bên trong chính nó. Có lẽ từ đang ấp ủ này, có thấu triệt.”

 “Vâng.” K tiếp tục, “Bạn sẽ nói một cái trí tốt lành không có trung tâm từ đó nó đang hành động?” Anh đang nói cùng nhiều ngừng lại, như luôn luôn như thế khi bàn luận điều gì đó nghiêm túc. “Trung tâm là cái tôi.” Anh đưa ra câu hỏi và tự trả lời nó. “Một cái trí tốt lành không có cái tôi. Khi một cái trí ở trong một trạng thái của chú ý hoàn toàn, đang lắng nghe, đang tham gia, vậy thì trong nó không có bất kỳ vị trí nào cho cái tôi. Cái tôi tự thể hiện sau đó. Dòng suy nghĩ đang lắng nghe. Nó là một trong những duy trì quan trọng của bộ não.” Krishnaji đang lắng nghe và đang dò dẫm, sau đó nói, “Bạn thấy, một cái trí tốt lành phải có từ bi. Nó phải có một ý thức mãnh liệt của vẻ đẹp và có khả năng hành động; phải có một liên hệ đúng đắn. Liệu không thể tìm được những cái trí như thế? Aristotle, Socrates – họ có những cái trí tốt lành.”

 “Họ đã có những cái trí mà có thể thâm nhập, xuyên thấu vật chất, năng lượng. Cái trí phải có một trạng thái tổng thể cùng nó.” Tôi đang thách thức Krishnaji.

 “Bạn sẽ nói một cái trí tốt lành là một cái trí tổng thể?” K hỏi.

 “Trong nói chuyện ngày hôm qua của anh, khi anh nói rằng thân thể không tách rời, nó là một phát biểu chưa bao giờ đã được nói trước kia. Anh tiếp tục nói rằng với cái trí, dụng cụ đã được đào tạo trong công nghệ, trong sự hiểu rõ của hiểu biết vô hạn, cùng sự hiểu rõ những kỹ thuật để thực hiện những công việc – với cái trí kỹ thuật, con người bị đau khổ. Và thế là đau khổ không kết thúc. Bởi vì không có sự liên quan giữa hai. Làm thế nào những thấu triệt này đã nảy ra? Cái trí của anh luôn luôn lóe ra những thấu triệt. Làm thế nào chúng nảy ra? Những thấu triệt này nảy ra khi anh đang ngồi trên bục giảng, hay anh nghĩ ra nó từ trước?”

 “Luôn luôn những thấu triệt nảy ra,” Krishnaji ngừng. Luôn luôn chúng nảy ra khi có nói chuyện nghiêm túc.” Sau đó lại nữa anh trở nên yên lặng. “Bạn thấy, nếu bạn định nghĩa nó quá nhiều – cái trí tốt lànhvậy thì bạn phủi bỏ mọi thứ. Vì vậy chúng ta không nên định nghĩa nó quá rõ ràng. Vì vậy định nghĩa giới hạn nó.”

 “Và tuy nhiên lý luậncốt lõi – cái trí phải chuyển động từng bước một. Tôi không hiểu họ sẽ đạt được điều gì từ cái trí của anh trong những thế kỷ sắp tới,” tôi thắc mắc.

 “Liệu chúng ta có thể nói, một cái trí lành mạnh, tốt lành có một khởi nguồn mới mẻ mà theo hướng nghịch lại dòng chảy hiện nay?” Krishnaji không để ý sự thắc mắc của tôi và tiếp tục câu hỏi, “Socrates? Ông ấy đại diện cho cái gì đó,” Krishnaji nói.

 “Người ta đang nói về một cái trí từ đó từ bi trôi chảy – ngược lại, nó có quan trọng gì đâu?” Tôi hỏi.

 “Làm thế nào một cái trí như thế hiện diện?” Lại nữa Krishnaji hỏi. “Liệu nó là kết quả của sự tiến hóa rất nhiều của một nhóm những cái trí – cái trí đang tìm hiểu, mà đã vun đắp bộ não, đạo đức, khổ hạnh, suốt hàng thế kỷ? Tất cả họ có lẽ không khổ hạnh, nhưng phía bên trong họ có chuyển động bên trong đó đang xảy ra. Chúng ta phải thâm nhập liệu một nền tảng lâu dài của sự tìm hiểu như thế sản sinh ra Buddha.”

 “Liệu có một chiều sâu và thấu triệt đối với cái trí nền tảng – cái trí chủng tộc?” Tôi hỏi.

 “Dĩ nhiên,” K nói. “Hay có một nguồn tự nhiên của tốt lành mà không liên quan đến xấu xa. Nguồn tự nhiên đó tồn tại và, khi được trao cơ hội, sản sinh ra Avatar một hóa thân, dù việc đó có ý nghĩa như thế nào. Đúng chứ? Hay nó là cái khác? Liệu nó là một ý thức nhóm, mà suốt hàng thế kỷ đã suy nghĩsuy nghĩsuy nghĩ về ‘cái đó,’ và việc đó có lẽ đã sản sinh ra Buddha?” Anh ngừng. “Ngày nào đó tôi đã suy nghĩ – năm 4000 trước CN những người Ai cập đã có lịch. Nó đã không xảy ra tức khắc. Chắc chắn họ phải có nền tảng vững vàng mới có thể sáng chế lịch. Có lẽ những người Ấn độ đã góp phần sản sinh ra Buddha. Nó có lẽ là cùng sự việc – những thấu triệt vô hạn này.”

 “Sự hội tụ của chúng?” Tôi hỏi.

 “Tôi nghĩ cái trí tốt lành phải tuyệt đối tự do. Nó có lẽ sợ hãi, nhưng phải có một năng lượng mà xóa sạch sự sợ hãi. Liệu những người khoa học dự trữ năng lượng như thế?”

 Tôi chất vấn anh. “Khoa học không liên quan gì đến trạng thái khác lạ, hay sao? Liệu người khoa học có thể kết thúc sự quan tâm tự-cho mình là trung tâm của anh ấy? Liệu anh ấy có thể xóa sạch nó? Chính hoạt động tự-cho mình là trung tâm mới tạo ra vấn đề. Liệu nó phụ thuộc vào việc gì anh làm?” Vai trò của tôi là đặt ra nghi vấn đúng đắn.

 “Không. Bạn thấy, họ nói Buddha rời bỏ gia đình, trở thành một khất sĩ, nhịn đói, cuối cùng Giác ngộ. Tôi không đồng ý điều đó. Nhịn đói, những khổ hạnh, không liên quan gì đến cái khác lạ.” Krishnaji thâm nhập.

 “Những người Phật giáo sẽ khẳng định rằng Buddha có lẽ đã trải qua tất cả việc đó – nhưng Giác ngộ không liên quan gì đến nó. Nhưng liệu ngài có thể đã vật lộn suốt sống của ngài và đạt được giác ngộ?” Tôi hỏi.

 “Bạn thấy, chúng ta đã khiến cho sự khổ hạnh là một yếu tố trở thành ‘cái đó.’ ”

 “Nhưng liệu không có sự tập hợp năng lượng cần thiết cho ‘cái đó’? ‘Cái đó’ chỉ có thể xảy ra được khi anh bắt đầu thấy rằng năng lượng không bị hao tán. Nó là cốt lõi.” Tôi nói.

 “Hãy cẩn thận. ‘Cái đó’ có nghĩa một ý thức của tự-nhận biết. Đừng nói muốn có cái đó bạn cần năng lượng.” Sự tinh tế của cái trí K đang được bộc lộ.

 “Nhưng phải có sự chuẩn bị của nền tảng.”

 “Dĩ nhiên.”

 “Hai mắt và hai tai của bạn phải khoáng đạt. Nó có lẽ không liên quan gì đến đạo đức. Nhưng những năng lượngliên tục đang bị hao tán bởi bàn tán, những vặt vãnh, hoạt động tự-cho mình là trung tâm, phải kết thúc,” tôi nói.

 “Việc đó – vâng,” K phản ứng. “Nhưng nếu bạn nói tất cả những hoạt động tự-cho mình là trung tâm phải kết thúc, vậy thì có một liên quan giữa ‘việc đó’ và cái còn lại. Không có sự liên quan.”

 “Nó không thể có nghĩa rằng anh có thể hao tán năng lượng.”

 “ ‘Việc đó phải kết thúc’ – bạn không thể nói việc đó.” Krishnaji không chuyển động.

 “Vậy thì anh có thể nói gì, thưa anh?” Tôi hỏi.

 “Tôi là tự-cho mình là trung tâm, và bạn bảo tôi, ‘Việc đó phải kết thúc’ – Nó cũng là một trở thành,” Krishnaji đang đẩy sâu.

 “Đúng. Vậy là lời giảng của anh sẽ được nhìn trong một cách khác? Liệu nó là một lời giảng của thức dậy đối với sống, mà trong nó hoạt động tự-cho mình là trung tâm nảy sinh – thế giới phía bên ngoài len lỏi vào, đau khổ nảy sinh?”

 “Và bạn xóa sạch tất cả nó?” K hỏi.

 “Bất kỳ cái gì là, đều được xóa sạch,” tôi nói.

 “Không phải được xóa sạch,” K khăng khăng.

 “Bất kỳ cái gì ‘là,’ được quan sát; có đang lắng nghe, đang thấy.”

 “ ‘Cái gì là’ không có ý định hay đang trở thành.” K đang bất động.

 “Nhưng nó là một trôi chảy trong đó mọi thứ đều hiện diện?”

 “Vâng.”

 “Tôi thấy rằng, lời giảng của anh không là sự kết thúc của trở thành nhưng là sự quan sát của trở thành. Có một khác biệt giữa kết thúc của trở thành và thấy ‘bất kỳ cái gì là.’ ”

 “Vâng, thấy và chuyển động khỏi nó.” Cái trí của Krishnaji giống như một bông hoa nở rộ.

 Sau đó, tôi sẽ hiểu rõ bản chất của điều dường như mâu thuẫn này. Đang quan sát con sông chứa đầy những ô uế – mà không đòi hỏi, không hy vọng thay đổi bản chất của nó bằng bất kỳ cách nào – làm tan biến những ô uế, để lại con sông sạch sẽ và tinh khiết. Sự tinh tế của lời giảng là tuyệt đối.

 Một bàn luận ở Bombay vào cuối tuần thâm nhập vào sự thách thức của thuyết biến đổi gene và khả năng thay đổi con người của nó. Krishnamurti nói, “Nếu nó có thể thao túng những gene, lúc đó con người là gì? Những con người đã được lập trình trong nhiều phương hướng, bây giờ những người thiết kế gene lại muốn lập trình con người trong những phương hướng khác. Nhưng vẫn vậy, con người bị lập trình.” K đang ấp ủ, đang thâm nhập.

 “Liệu có một việc như sự tiến hóa thuộc tâm lý?” Anh hỏi. “Những người thiết kế gene có thể quan tâm đến những thay đổi trong giá trị, nhưng nó chỉ là hành trình từ cái đã được biết sang cái đã được biết. Liệu sự thiết kế gene có thể dẫn đến một mở rộng của bộ não? Liệu nó có thể cho phép vận hành cả việc xảy ra lẫn hành động cùng thời điểm, hay liệu nó quan tâm giới thiệu một bộ những giá trịcon người đã khẳng định? Thiết kế gene chỉ có thể vận hành với ‘cái gì là’ bên trong cái đã được biết.”

 Achyut Patwardhan chen vào, “Tất cả những người khoa học chấp nhận điều gì họ thấy như những giới hạn của kính viễn vọng của họ.”

 Nhưng những nghi vấn của Krishnamurti dành cho chính anh. Anh hỏi, “Liệu cái tôi là bộ phận của qui trình gene hay bộ phận của qui trình thuộc tâm lý?” Anh ngừng và thả cho nghi vấn lắng sâu thăm thẳm. “Lúc này cái trí thuộc cùng công nghệ mà đã tiến hóa và đã khám phá bom hạt nhân đang đặt ra những thắc mắc về gene và đang thực hiện sự nghiên cứu về gene. Nhưng nó là cùng dụng cụ. Cách mạng công nghệ đã dẫn đến bom nguyên tử, sự tiến hóa đã không thay đổi con người. Chỉ một phần của bộ não đang vận hành. Sự mất cân bằng này đang gây ra thảm họa to tát. Lúc này nghi vấn nảy ra, ‘Liệu qua sự thiết kế về gene con người có thể được giúp đỡ để thay đổi?’ ”

 Anh đang nói chầm chậm, đang thâm nhập thăm thẳm vào nghi vấn. Vài câu hỏi được đưa ra trong giữa bàn luận. K để nguyên chúng và bỗng nhiên ngắt ngang, nói, “Liệu chúng ta có thể loại bỏ sự tiến hóa?” Những người tham gia yên lặng, sau đó bắt đầu chất vấn.

 “Việc đó sẽ chẳng khác gì là một thay đổi đột biến. Trong phương hướng nào? Thông minh được cần đến.” Và, “Nếu nó tiếp tục là một đột biến trong sự tiến hóa, cái người mà khẳng định phương hướng về gene, chắc phải đã đột biến rồi để biết được.” Lại nữa Krishnaji ngắt lời. “Liệu có thể thay đổi con người ngay tức khắc, và không trải qua qui trình gene? Liệu có thể kết thúc sự tiến hóa trong bất kỳ phương hướng nào?”

 “Nó có thể xảy ra được với cá thể, nhưng không thể với tập thể,” là sự trả lời.

 “Tập thể là gì?” Krishnaji hỏi.

 “Nhiều người.”

 “Tại sao bạn quan tâm đến nhiều người? Bạn tách khỏi tập thể à?” K phản kháng. Lại nữa có sự yên lặng.

 “Liệu có thể kết thúc thời gian, mà là sự tiến hóa?” K đã mạch lạc và đang chuyển động vào nghi vấn. “Mà có nghĩa gì? Sự thiết kế gene cần đến thời gian. Nó là bộ phận của sự tiến hóa. Sự khủng hoảng hiện diện ở đây, ngay lúc này. Nó thuộc vật chất hay thuộc tâm lý? Nó ở trong ý thức của con người? Sự khủng hoảng ở đâu? Nó ở trong thế giới công nghệ? Một khủng hoảng là một ngọn lửa, và cái trí phải có một bao la mà sự khủng hoảng đòi hỏi.”

 Anh nói, “Sự thúc đẩy mãnh liệt của suy nghĩ trong phương hướng của công nghệ đã dẫn đến những khám phá phi thường. Dường như không có sự kết thúc cho sự thúc đẩy giải quyết-vấn đề này. Chúng ta sử dụng cùng sự thúc đẩy này để giải quyết những vấn đề thuộc tâm lý của tham lam, hận thù, sợ hãi. Không có sự tiến hóa trong cái tinh thần. Tham lamsợ hãi không thể tan biến vào những đối nghịch của nó. Đây là sự ngụy biện và sự ảo tưởng vô cùng. Trở thànhảo tưởng. Tham lam chỉ có thể tăng trưởngcủng cố trong bản chất riêng của nó; nó không bao giờ có thể trở thành không-tham lam.

 “Vậy là, liệu có thể loại bỏ ý tưởng của sự tiến hóa trong cái tinh thần? Liệu người ta có thể kết thúc suy nghĩ dựa vào thời gian như trở thành? Đột biến là điều đó. Trong đó là sự đột biến cơ bản.”

 Suốt thời gian ở lại Bombay, anh sẽ nói về “sống nhẹ nhàng như người khách trong nhà của người ta, hay trong thân thể của người ta. Là một người khách là không có ý thức của quyến luyến; dạo bước nhẹ nhàng trên quả đất.

 Anh cũng nói về một sử dụng mới mẻ của những giác quan, “để cho trong đang vận hành, những cơ quan thuộc giác quan không phá hoại năng lượng, nhưng thả cho nó trôi chảy. Vĩnh cửu,” anh trang trọng nói, “là trôi chảy không-thời gian đó.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26239)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21644)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23420)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14747)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12956)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19858)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13827)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22781)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11992)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12430)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24067)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13740)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21096)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25687)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19261)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23253)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21409)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18342)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14007)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15475)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17892)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21984)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17564)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30968)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28083)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14884)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17165)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22637)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28258)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14027)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14181)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21497)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20836)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28544)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15071)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26611)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19302)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31623)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21027)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26234)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23600)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25646)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25421)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19741)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18499)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17805)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19073)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant