Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. “Dường như Cái trí lan rộng vô tận”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7922)
17. “Dường như Cái trí lan rộng vô tận”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 3

PHƠI BÀY LỜI GIẢNG

1950-1959

CHƯƠNG 17

“Dường như Cái trí lan rộng vô tận.”

Tháng ba năm 1955, người ta quyết định rằng trước khi quay lại Châu âu, Krishnaji sẽ nghỉ một tháng tại Ranikhet, một nhà ga trên đồi ở Himalayas. Suốt những năm cai trị của người Anh, Ranikhet, trong những dãy Kumaon của Himalayas, là một vị trí quân sự – không người dân sự nào sống ở đó. Những ngôi nhà, giống như tất cả những ngôi nhà nào được xây dựng bởi người Anh trong những nhà ga trên đồi của Ấn độ, đều là những bản sao nhớ cố hương giống hệt những ngôi nhà người Anh – núp mình trong những cái vườn, đầy hoa thơm và những cây thông nhựa thơm và những cây thông tuyết cao ngất. Mùi hăng của nhựa thông và khói thấm vào cây cối. Những bụi hoa đã được trồng dọc theo vệ đường, và vào mùa hè chúng rực rỡ những bông hoa.

 Từ Ranikhet hình thành sẵn lộ trình đến những vị trí thiêng liêng của hành hương, nằm sâu trong những rặng Himalayas – đến Kedarnath và Badrinath, ngôi nhà ở Himalayas của Shiva và Vishnu; đến những nguồn của con sông Ganga và Jamuna; và đến Kailash và Manasarovar ở Tibet. Kailash, ngôi nhà trên núi bao bọc bởi tuyết của Shiva sau khi ông được chấp nhận vào danh sách các vị thần Brahmin, có hình như chóp nón. Ở một phía của hòn núi là Manasarovar, cái hồ nước trong xanh là nơi nghỉ ngơi của những con thiên nga vàng thần thoại, ham sa. Âm thanh của cái tên con thiên nga vang rền cùng những yên lặng của vũ trụ, và cùng hơi thở vào ra của prana sức mạnh của sự sống. Ở phía bên kia của hòn núi là Raksasa Tal, một cái hồ núi lửa có nước màu đen hung tợn. Hai cái hồ này tượng trưng hai khía cạnh của Shiva và của cái trí – sự hỗn loạn và sự yên lặng tuyệt đối.

 Từ Ranikhet, vào một ngày quang đãng, người ta có thể thấy một dải rộng của những đỉnh núi Himalayan phủ tuyết. Chúng có những cái tên thiêng liêng – Nandadevi, Neelkanth, Nandakhot, Trisul. Bình minh và hoàng hôn, mặt trời giữa trưa khạc lửa, mặt trăng tròn vào ban đêm – tất cả bộc lộ ánh sáng và những cái bóng trên những khuôn mặt kiên định, đe dọa của chúng. Chúng là những người thấy vĩnh cửu, những người bảo vệ đất đai và nguồn của những con sông ban tặng sự sống.

 Achyut đã đi đến Ranikhet và tìm được một ngôi nhà, Ardee, cho Krishnaji sống. Người ta sắp xếp rằng, chồng của tôi lái xe đưa Krishnaji từ Bombay đến Ranikhet. Krishnaji đã ở Bombay tổ chức những nói chuyện và những bàn luận, và họ quyết định anh sẽ rời để đi đến những quả đồi vào ngày 18 tháng ba. Tuy nhiên, ở Bombay anh bị sốt nặng. Krishnaji bị mê sảng; anh không thể chịu được sự ồn ào và giường nằm của anh phải được chuyển sang phòng khách. Dr. Nathubhai, một bác sĩ giỏi, khám cho Krishnaji và khẳng định rằng anh đã có những con giun do bởi ăn thức ăn sống. Thân thể nhạy cảm của K đã phản ứng dữ dội, và bàng quang và đường dẫn nước tiểu bị viêm. Tuy nhiên, với sự điều trị, Krishnaji hồi phục mau chóng. Tuần thứ ba của tháng ba chúng tôi ở Delhi, và vào ngày 28 tháng ba, chúng tôi sẵn sàng rời đó để đi đến những hòn núi.

 Kitty Shiva Rao đã sắp xếp một trong những người giúp việc của em, Diwan Singh, và Tanappa từ Rajghat, đi trước đến Ranikhet và chuẩn bị ngôi nhà cho Krishnaji. Chuyến đi khoảng trên hai trăm dặm. Vì Krishnaji không thể chịu được sức nóng, chúng tôi bắt đầu chuyến đi lúc 5 giờ sáng.

 Krishnaji ngồi ghế trước cùng người chồng của tôi, đang lái xe, và Madhavachari và tôi ngồi phía sau. Không khí sáng sớm thật mát mẻ, và chúng tôi đi gần đến những chân đồi trước khi mặt trời quá nóng. Trước kia Krishnaji là người lái xe giỏi. Sự cảnh giác cực độ của anh có thể nhận biết được những giây phút trước khi thảm hoạ xảy ra. Nhưng như người lái xe phụ, anh đang gây nhiều bối rối. Suốt chuyến hành trình anh liên tục chỉ bảo Jayakar làm việc này và không làm việc kia; cảnh báo anh ấy về những nguy hiểm đang đến gần. Nhiều lần chúng tôi gợi ý rằng Krishnaji ngồi cùng chúng tôi ở phía sau, nhưng anh quả quyết không chịu chuyển chỗ ngồi.

 Madhavachari và tôi bắt đầu bàn luận những vấn đề khác nhau liên quan đến hiểu rõ về chính mình. Chúng tôi đã bền bỉ leo lên núi; quang cảnh những thác nước và những hẻm núi sâu và những sườn đồi dựng đứng phủ đầy cây đỗ quyên. Chúng tôi nhìn ra ngoài cây cối đang thay đổi, những tảng đá và những vách đứng, những con suối ào ào. Chúng tôi đang nói về sự tỉnh thức, và mổ xẻ vấn đề đến từng chi tiết về bản chất của nó, khi bỗng nhiên chúng tôi cảm thấy bị nẩy người lên. Chúng tôi không chú ý và tiếp tục bàn luận của chúng tôi. Một vài giây sau, Krishnaji quay lại và hỏi chúng tôi đang bàn luận điều gì. “Sự tỉnh thức,” chúng tôi nói, và ngay lập tức bắt đầu đặt ra cho anh những câu hỏi về nó. Anh lắng nghe, nhìn chúng tôi đầy giễu cợt, và sau đó hỏi, “Bạn có nhận thấy điều gì vừa xảy ra lúc nãy?”

 “Không.”

 “Chúng ta vừa tông một con dê, bạn thấy nó?”

 “Không.”

 Sau đó rất nghiêm nghị anh nói, “Và bạn đang bàn luận sự tỉnh thức.” Không từ ngữ nào cần thiết nữa. Nó gây choáng váng cực độ.

 Ngôi nhà ở Ranikhet mọc đầy dây leo, ngôi vườn phủ đầy cỏ dại, nhưng những cây thông tuyết và những cây thông nhựa thơm vây quanh ngôi nhà. Sự tinh khiết nồng nặc của nhựa thông tỏa khắp những căn phòng. Nó là an bình mãnh liệt bởi sự yên lặng được tìm thấy nơi những ngôi nhà cô đơn nằm trong những cánh rừng.

 Chồng tôi và tôi quay lại Delhi sau khi ở lại đêm đó. Madhavachari phải đi đến Madras, và anh ấy theo về cùng chúng tôi. Achyut ở cùng Krishnaji một vài ngày.

 Krishnaji thực hiện những chuyến dạo bộ rất lâu một mình. Trong những cây thông nhựa thơm và những cánh rừng thông tuyết anh bị lạc, nhưng tìm được lối về theo bản năng.

 Cây cối tương phản cái phông của những đỉnh núi Himalayas là một cảnh tuyệt vời. Anh nói về những đỉnh núi này trải dài từ Nepal đến những hang động Badrinath: “Chúng cách chúng tôi khoảng sáu mươi dặm, cùng một thung lũng xanh sậm mênh mông giữa chúng và chúng tôi, trải dài trên hai trăm dặm. Chúng kéo thẳng đường chân trời từ đầu này sang đầu kia. Sáu mươi dặm đang ngăn cản đó dường như biến mất, và chỉ có sức mạnh và sự cô đơn đó. Những đỉnh núi này, một số cao trên 25.000 feet, mang những cái tên thiêng liêng, bởi vì những thần thánh sống ở đó, và con người đến với chúng từ những khoảng cách thật xa xôi để tôn sùng và để chết.

 “Cái trí dường như bao phủ không gian mênh mông và khoảng cách vô tận, hay nói khác hơn cái trí dường như lan rộng mà không có một kết thúc, và đằng sau và vượt khỏi cái trí có cái gì đó mà ôm ấp tất cả những sự vật trong nó.”

 Sau đó anh chất vấn những nhận biết riêng của anh. “Cái vượt khỏi tất cả ý thức không thể suy nghĩ được hay trải nghiệm được bởi cái trí. Nhưng vậy thì, cái gì mà đã nhận biếtý thức được cái gì đó hoàn toàn khác hẳn những chiếu rọi của cái trí? Ai trải nghiệm nó? Chắc chắn đó không là cái trí của những ký ức, những phản ứng và những thôi thúc hàng ngày.

 “Liệu có một cái trí khác?” anh tự hỏi mình. “Liệu có một bộ phận của cái trí mà ngủ im lìm, chỉ được thức dậy bởi cái đó mà một mình và vượt khỏi tất cả cái trí? Nếu đây là như thế, vậy thì bên trong cái trí luôn luôn có cái đó mà vượt khỏi tất cả suy nghĩthời gian. Và tuy nhiên điều đó không thể được, bởi vì nó chỉ là sự suy nghĩ giả thiết và thế là một sáng chế khác của cái trí.

 “Bởi vì sự bao la không được sinh ra từ qui trình của cái trí, vậy thì cái gì nhận biết nó? Liệu cái trí như người trải nghiệm nhận biết nó, hay sự bao la tự nhận biết nó bởi vì không có người trải nghiệm? Chỉ có cái đó, và cái đó tự nhận biết nó mà không-đo lường. Nó không khởi đầu và không từ ngữ.”

 Vào chiều tối, Krishnaji ngồi trước lò sưởi và nhờ Achyut dạy cho anh một ít tiếng Phạn. Achyut bắt đầu đọc Mandukya Upanishad cùng Krishnaji. Upanishadbộc lộ âm thanh của Aum – toàn âm thanh của nguyên âm trong đó không có những phụ âm – âm thanh Aum mà vang vọng trong vũ trụ và trong những cái hang của quả tim khi tất cả những âm thanh phía bên ngoài đã kết thúc.

 Achyut hỏi, “Có điều gì sai trái với âm điệu Aum nếu cái trí trở nên yên lặng?”

 “Cái trí của bạn trở nên yên lặng?”

 “Trong giây phút đó khi chúng ta ngâm âm thanh – ‘cái tôi’ không hiện diện,” Achyut nói.

 Trả lời của Krishnaji phủ nhận tất cả những nương tựa và những cái nạng. “Việc gì bạn đang làm bao hàm thời gian. Cái đó không liên quan gì đến thời gian. Thời gian không bao giờ có thể dẫn đến cái khác lạ.”

 Achyut quay lại đồng bằng sau một vài ngày và Krishnaji ở một mình tại Ardee. Một loạt những lá thư gửi tới người chồng của tôi tiết lộ sự lưu tâm tỉ mỉ của Krishnaji về quần áo của anh. Anh luôn luôn có một cảm giác say đắm về màu sắc và kết cấu của vải. Những loại vải dệt bằng tay làm say mê anh. Ở Ấn độ anh mặc rất đơn giản nhưng thanh lịch, một kurta dài đến dưới đầu gối và những bộ pyjama rộng. Để cho ấm áp anh mặc một jacket hay một choga. Anh có nhiều những loại vải bằng len đẹp này, được cho anh bởi Mrs. Besant, chế từ len tus của Kashmir, trong những màu nâu mật đậm.

 Trong năm 1948 và vài năm sau, anh chỉ mặc màu trắng. Nhưng sau đó tình yêu những màu đất của người hành khất thịnh hành. Bạn bè mua cho anh những loại vải bông dệt bằng tay và những kurta bằng vải lanh thô dệt bằng tay được chế tạo từ những phế phẩm sau khi lụa đã được quấn thành chỉ, trong những màu sắc từ màu kem đậm đến màu nâu vàng cháy và những màu sắc nhuộm vỏ cây được mặc bởi những thầy tu Phật giáo.

 Sống một mình, cùng một người nấu bếp chăm sóc những nhu cầu của anh, Krishnaji đã tự làm mới mẻ chính anh. Anh thực hiện những chuyến dạo bộ thật lâu, nói chuyện cùng những đỉnh tuyết phủ, nhìn ngắm, lắng nghe thế giới bên trong anh và quanh quanh anh. Một lần anh kể cho chúng tôi một câu chuyện về nhiều con khỉ, những con khỉ mặt đen của Châu á thường đu đưa trên những ngọn cây quanh Ardee. Một buổi sáng anh đang viết trong phòng của anh, cửa sổ mở. Bỗng nhiên anh có một cảm giác của đôi mắt đang chú ý nhìn anh. Anh ngước lên và thấy một con khỉ trưởng thành đang ngồi trên bệ cửa sổ và nhìn chằm chằm vào căn phòng. Krishnaji đứng dậy và bước về phía con khỉ. Khi họ đối diện nhau, con khỉ dơ bàn tay của nó ra. Krishnaji cầm nó và con khỉ để cho anh nắm chặt. Có sự tin cậy tuyệt đối. Krishnaji diễn tả sự tiếp xúc lòng bàn tay con khỉ như mạnh mẽ, rất mềm mại, bất kể những vết chai sạn do bởi leo trèo những cành cây. Trong vài phút họ vẫn còn cầm tay nhau, sau đó con khỉ cố gắng vào phòng. Krishnaji đẩy nó ra, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, và đóng cửa sổ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14873)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17798)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18212)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14992)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13183)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21163)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15318)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12348)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12833)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27523)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12135)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34949)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17749)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11826)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12648)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14569)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32471)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19460)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14270)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15315)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14143)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53171)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11664)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13926)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13820)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13615)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34174)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16210)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13564)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15910)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13510)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22971)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27743)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13905)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24972)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13948)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31332)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13864)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15562)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14977)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant