Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 07 - Tâm Sau Khi Chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10560)
Bài 07 - Tâm Sau Khi Chết

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 7]
Tâm Sau Khi Chết

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Nếu tôi nói có một ngã,
Ông sẽ nghĩ nó thường hằng
Nếu tôi nói không có một ngã
Ông sẽ nghĩ rằng vào lúc chết
Nó sẽ biến mất hoàn toàn.

Kinh Tương Ưng Bộ (Samyuttanikaya)

Một đời hoặc nhiều đời?

Tất cả những truyền thống tâm linhtôn giáo đều đồng ý về vài loại tồn tại vượt ngoài đời sống này, và tất cả chúng đều sửa soạn chúng ta cho cái vị lai đó. Nếu sau chết chẳng có sự sự vật vật gì cả, nếu tồn tại của chúng ta bị giới hạn bởi đời người này, chúng ta có thể thoả mãn với tri thức uyên bác và những hoạt động thế tục. Một sự tu tập tâm linh, bất cứ là gì, thì chắc hẳn chẳng cần đến.

Cái ý tưởng rằng cái chết là một sự chấm dứt hoàn toàn theo sau bởi cái hoàn toàn chẳng-có-gì-cả là một sản phẩm của một cái tâm cực kì hẹp hòi.

Trong khi những tôn giáo có thể đồng ý tổng quát về tồn tại của một đời sau, nhiều truyền thống có những toàn cảnh khách quan nổi bật riêng biệt về bản chất của cái đời sau đó. Vài truyền thống dạy rằng sau khi chết không có nhiều đời nữa, nhưng có một đời sống vĩnh cửu, trong khi Pháp dạy rằng sau cái chết còn có nhiều đời nữa cho tới khi viên giác.

Ki tô giáo đưa ra một trình bày tổng quát về đời sau, dạy rằng có đời sống sau khi chết và rằng những hoàn cảnh của đời sống đó tùy thuộc vào đường lối bạn sống đời sống hiện nay của bạn. Đối với một người Ki tô giáo, đức hạnh dẫn đến thiên đường, và tội lỗi dẫn đến địa ngục. Đó là ý tưởng căn bản.

Pháp, theo hướng khác, dạy sự khả hữu của nhiều đời vị lai, rằng những hành động tiêu cực trong đời này dẫn đến đau thương trong những đời vị lai trong khi những hành động tích cực dẫn đến những đời sống hạnh phúc vị laicuối cùng dẫn tới viên giác.

Hai truyền thống này hoà hợp tốt đẹp về nhu cầu buông bỏ những cái tiêu cực hoặc tổn hại và thâu nhập thực hiện những cái tích cực; cả hai cũng đồng ý về những kết quả của những hành động tiêu cựctích cực. Không có gì mâu thuẫn giữa hai truyền thống. Sự khác biệt là rằng Ki tô giáo cống hiến một bản trình bày vắn tắt hơn, trong khi Phật giáo cống hiến một trình bày nhiều chi tiết hơn.

Chết và Tính tương tục của Tâm

Hư không thì vượt ngoài thời gian; chúng ta không thể nói rằng hư không bắt đầu tồn tại vào một điểm đã cho trong thời gian hoặc nó sẽ ngừng tồn tại sau một số lượng thời gian đã qua đi. Tương tự, tính không của tâm thì vượt ngoài thời gian; tâm về mặt bản chất căn bản thì phi thời gian. Do bản chất, tâm thì vô thủy vô chung, vượt ngoài những sinh những tử. Sinh tử hiện hữu chỉ ở mức độ những huyễn tượng của tâm.

Khi tâm không nhận biết sáng tỏ bản chất của nó và vì thế bị vướng mắc trong lối mòn của những huyễn tượng, nó chuyển cư xuyên cõi vô tận trong huyễn tượng, từ đời sống này tới đời sống kia. Bị phan duyên bởi vô minh và nghiệp, chúng ta phải sống cho hết vô số cuộc đời trước đây.Trong tương lai, chúng ta bị bắt buộc phải sống cho hết nhiều cuộc đời nữa. Tâm chuyển cư xuyên cõi từ đời sóng này tới đời sống khác, từ một huyễn tượng này tới huyễn tượng kế tiếp – suốt bao lâu tâm chưa đạt tới viên giác, sự tỉnh thức của một vị phật hoặc của một đại bồ tát.

Trong trạng thái hiện tại, chúng ta không thể nhận biết được những đời trước của chúng ta; chúng ta không biết chúng ta từ đâu đến, nơi chúng ta sẽ đi, hoặc thân phậnchúng ta sẽ được tái sinh vào. Trong suốt thời gian này, cái mà chúng ta trải nghiệm thì thực ra chỉ là một sự chuyển tiếp, một lối vào-trước-ra-sau (passage) giữa vô tận của những đời sống khả hữu và những thế giới vượt ngoài quan niệm của chúng ta.

________________________________________

Cảm đề về câu cuối cùng của pháp thoại ghi trên, và

để nhớ đến Nguyễn Du (1765-1820)

“ Con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Những kẻ vào trước, ra sau
Ai cho kén chọn, vàng thau tại mình

________________________________________

Chú thích

Bài --Kalu Rinpoche. Nhị Đế--trên Hoavouu – là bài Tâm diệu minh thường trụ [Bài 6]

1. Pháp thế gian và pháp tâm linh

Kalu Rinpoche mở đầu bài diễn giảng 5 ngày “ Tịch Tĩnh Tâm Ý và Viên Giác xuyên qua Thiền Định” (Mental Peace and Enlightenment through Meditation) tại Tibet House, New Dehli, India, 1986, như sau:

“Tôi rất hạnh phúc thấy nhiều người từ những nước khác nhau hội hiệp ở đây ngày hôm nay với ý nguyện lắng nghe Pháp. Khi chúng ta nói về Pháp chúng ta có thể định hướng tới hai sự vật khác nhau: pháp thế gian và pháp tâm linh. Bất cứ những hoạt động nào được làm ra để bảo đảm cho an sinh và hạnh phúc của chính mình trong đời sống này là pháp thế gian; pháp thế gian ngày nay có một mức độ cao của sự phát triển trong tất cả các nước trên thế giới. Còn như đối với pháp tâm linh, mục đích của nó là mang đến đời sống này an tĩnh nội tâmhạnh phúc nhiều hơn nữa, và một cách tối hậu dẫn bạn hướng đến sự kiểm soát hoàn toàn đối với tâm của chính bạn và cuối cùng tới trạng thái phật, vô thượng giác.

2. Lược trích từ-- Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch. Xb. 2000. 7374 trang + quyển Mục lục.

Hư không. Skt.akasa

1. Hư không

Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh, không bị chướng ngại.

2. Hư không

Khoảng không bao la gồm có năm nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật.

Còn theo Tông kính lục quyển 6 thì Hư không có 10 nghĩa:

Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc.

3. Hư không.

Tên khác của Không giới. Chỉ cho khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới.

Hữu Không.

Đối lại: Không Hữu.

Hữu tức là Không (chân không), gọi là Hữu không;

Không tức là Hữu (diệu hữu) thì gọi là Không hữu.

Hữu chỉ cho tướng muôn vật trong thế giới hiện tượng;

Không chỉ cho thực thể tồn tại của tất cả hiện tượng.

Về mối quan hệ giữa Hữu và Không thì luận Bất chân không trong Triệu Luận nói rằng tuy có mà không tức “ phi hữu”, tuy không mà có tức “phi vô”.

Hữu tình. Skt. sattva.

Cũng gọi hữu thức, hữu linh. Dịch cũ: chúng sinh.

Diệt

1. Diệt.Skt. Vyupasama.

Gọi tắt của tịch diệt, hàm ý là Niết bàn.Thoát khỏi sống chết, tiến vào cảnh giới tịch lặng vô vi, gọi là nhập diệt.

2. Diệt. Skt. Anityata.

Hàm ý là diệt hết. Cũng gọi diệt tướng, Vô thường. Một trong bốn tướng. Nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất hoại diệt trong khoảng sát na. Cái chết của hữu tình cũng gọi là diệt.

3. Diệt. Một trong bốn đế. Gọi tắt của Diệt Đế.

Tịch Diệt. Skt. Vyupasama.

Gọi tắt: Diệt. Vượt thoát sinh tử, tiến vào cảnh giới vắng lặng, vô vi. Cảnh giới này xa lià cõi mê hoặc, được an vui, nên gọi là Tịch diệt vi lạc.

Kinh Tăng nhất a hàm quyển 23 (đại 2, 672 trung) nói:

“ Tất cả hành vô thường

Có sinh ắt có diệt

Chẳng sinh thì chẳng diệt

Diệt này là vui nhất”

Vô sinh.

Cũng gọi Vô khởi. Đồng nghĩa:Vô sinh diệt, Vô sinh vô diệt.

Tất cả các pháp tồn tại đều không có thực thể, là không, cho nên không có sinh diệt biến hoá. Nhưng hàng phàm phu do không biết lí vô sinh này, nên khởi phiền não sinh diệt mà bị trôi lăn trong dòng sống chết; nếu nương vào các kinh luận mà quán xét lí vô sinh thì phá trừ được phiền não sinh diệt.

Vô thường kệ

Chỉ cho bài kệ nói về lí vô thường của thế giới.

Kinh Đại bát niết bàn quyển hạ (Đại 1, 204 hạ) nói:

“Chư hành vô thường
Thì sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc”
“ Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui”

Bài kệ này giải thích rõ muôn vật trong thế gian không một vật gì là thường trụ không hoại diệt; hễ có sinh thì hẳn phải có diệt; bởi thế chỉ có cách thoát khỏi thế giới sinh diệt này mới đạt đến chân lí vắng lặng.

Vô trụ xứ niết bàn. Skt.Apratisthita-nirvana.

Cũng gọi Vô trụ niết bàn.

Một trong 4 thứ Niết bàn của tông Duy thức. Tức Niết bàn không trụ trong sinh tử, cũng không trụ nơi Niết bàn, gọi là Vô trụ xứ niết bàn. Bồ tát vì lòng đại bi thương xót hữu tình nên không trụ nơi Niết bàn; lại dùng Bát nhã cứu độ hữu tình, cho nên không trụ trong sinh tử, đó là Vô trụ xứ niết bàn, tức chỉ cho Niết bàn của Bồ tát.

_______________________

Kinh Lăng già giảng vô sinh,vô nhị.

  •  Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập ( thể nghiệm ) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

[ĐHP trích. Mahamati: Đại Huệ]

_________________________

Kalu Rinpoche

Mind After Death

If I say there is a self, you will think it’s permanent.
If I say there isn’t a self, you will think that at death it disappears completely.
Samyuttanikaya.

One Life or Many Lives?

All spiritual and religious traditions agree on some type of experience beyond this life, and all of them prepare us for that future. If after death there was nothing, if our existence was limited to this lifetime, we could be satisfied with wordly knowledge and activities. A spiritual practice, no matter what it was , would be unnecessary.

The idea that death is a complete and followed by sheer nothingness is the product of an extremely narrow mind.

While religions might be in general agreement about the existence of an afterlife, the various traditions do have distinct perspectives about the nature of that afterlife. Some teach that death is not followed by more lifetimes, but by one eternal life, while Dharma teaches that death is followed by many lifetimes until enlightenment.

Christianity, for example, offers a general presentation of the afterlife, teaching that there is life after death and that the conditions of that life depend upon the way you live your present life. For a Christian, virtue leads to heaven and sinfulness leads to hell.That’s the basic idea.

Dharma, on the other hand, teaches the possibility of many future lives, that negative actions in this life lead to suffering in future lives while positive actions lead to happy future lives and finally to enlightenment.

These two traditions are in perfect agreement about the need to abandon the negative or harmful and adopt the positive; they agree on the results of negative and positive actions. There is no contradiction between them. The difference is that Christianity offers a briefer presentation, while Buddhism offers a more detail one.

Death and the Continuity of Mind

Space is beyond time; we can’t say that space began to exist at a given point in time or that it will cease to exist after a certain amount of time has passed. Similarly, the mind’ s emptiness is beyond time; mind is essentially atemporal. By nature, mind is eternal, beyond births and deaths. These exist only at the level of the mind’s illusion.

When the mind does not know its nature and is therefore caught up in the path of illusions, it transmigrates endlessly in illusion, from life to life. Conditioned by ignorance and karma, we have had to live out innumerable previous lives. In the future, we will be forced to live out many more.The mind transmigrates from life to life, from one illusion to the next – as long as it has not attained enlightenment, the awakening of a buddha or great bodhisattva.

In our present state, we cannot recognize our previous lives; we don’t know where we came from, where we’ll go, or what condition we’ll be reborn into. Meanwhile, what we experience is actually only a transition, one passage among an infinity of possible lives and worlds beyond our conception.

_____________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17129)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38700)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21940)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 22030)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69856)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6906)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38774)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 44066)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44128)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42951)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44448)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23089)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39272)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21749)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42432)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35642)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46558)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30179)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30853)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26202)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20378)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25603)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18519)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17141)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40802)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21744)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25974)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41469)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24927)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23796)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15069)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19986)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37866)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19105)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17712)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23547)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36371)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40401)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19534)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21741)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46244)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35969)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28665)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28902)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32218)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26330)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33468)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24104)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24851)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54573)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant