Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 14 - Tám Thức và Năm Nguyên tố chính

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10308)
Bài 14 - Tám Thức và Năm Nguyên tố chính

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 14]
Tám Thức và Năm Nguyên tố chính
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Eight Consciousnesses and the Five Principal Elements

Tính Phật có bảy thức đi chung, chúng ta nắm giữ bảy thức này tạo nên tính nhị nguyên đối đãi.
Khi điều này được nhận biết sáng tỏ, sự nắm giữ bảy thức sẽ ngừng trải rộng.
Kinh Lăng già

Để thông hiểu sáng tỏ sự liên kết giữa các giáo pháp về tâm và sự chuyển cư trong các trung hữu, và để thông hiểu tốt đẹp hơn các tiến trình trung hữu này, điều có thể hữu ích cho chúng ta là hãy xem xét các sự biến hoá tâm trải qua trong suốt những giai đoạn này.

Tính Phật hoặc tâm thanh tịnh, trí tuệ bản nguyên đó, là , rốt ráo, tính không, tính giác quang chiếu, và khả tính vô biên (Buddha nature or pure mind, that primordial wisdom, is, after all, emptiness, lucidity, and infinite possibility). Nó là quang minh giác chiếu (= quang sắc giác chiếu = clear light), đối diện với tất cả các hữu tình vào lúc cuối của sự hoà tan của tâm thức vào thời điểm chết, hoặc, trong trung hữu hấp hối (= cận tử), được tiếp theo bởi trung hữu của tính không (It is the clear light, encountered by all beings at the end of the dissolution of consciousness at the moment of death, or, in the bardo of agony, followed by the bardo of emptiness).

Quang minh giác chiếu này hoặc bản trí (=trí tuệ bản nguyên) có năm nguyên tố chính: hư không, khí, lửa, nước, và đất trong trạng thái căn bản của nó. Những nguyên tố chính này biến hóa khi tâm và những ứng hiện của nó được biến đổi, như chúng ta sẽ thấy.

Khi tính Phật bị che lấp bởi vô minh, nó trở thành nền tảng phổ quát của sinh tử lưu chuyển (phổ quát = mọi thời, mọi nơi). Trong trạng thái như vậy, nó được gọi là thức phổ quát hoặc thức căn bản, hoặc thức thứ tám (As such, it is called the universal or fundamental consciousness or the eighth consciousness). Nó ôm trọn và lan toả khắp sự-sự vật-vật, và từ nó tất cả những huyễn tượng của các thức cá biệt (all the illusion of individual consciousnesses) sinh khởi.

Sự phát triển của ngu si (delusion: si; ngu si; vô minh) bắt đầu với hiện tướng của tính nhị nguyên đối đãi. Trạng thái bất nhị của tính không, tính giác quang chiếu, và biện biệt vô ngại (= phân biệt rành rẽ không bị che lấp) chia chẻ thành tính nhị nguyên chủ thể - khách thể và hành tác khởi từ nhận thức đó.Từ tính không sinh khởi tôi-chủ thể, từ tính giác quang chiếu sinh khởi cảm thức về khách thể, và từ phân biệt rành rẽ không bị che lấp sinh khởi tất cả những quan liên trên căn bản tham luyến (= tham), chống đối (= sân), và vô minh (= si) (From emptiness arises the me-subject, from lucidity arises the sense of otherness, and from the unobstructedness arise all relationships based on attraction, repulsion, and ignorance). Với sự chia chẻ này, thức bị nhơ nhuốm hoặc thức nhị nguyên đối đãi duyên hội xảy ra-- thức thấy rằng một kẻ có một sự-sự vật-vật (With this split, contaminated consciousness or dualistic consciousness occurs – the consciousness that someone has something). Nó bị quy chiếu ở trong trạng thái bị nhơ nhuốm bởi vì nó bị ô nhiễm với chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi, nó là thức thứ bảy (It is referred to as contaminated because it is polluted with dualism, which is the seventh consciousness).Thức bị nhơ nhuốm này có một đoàn tùy tùng gồm sáu thức khác biệt, tương ứng với các quan năng cảm thức khác biệt: mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc chạm, và tâm ý (This contaminated consciousness has an entourage of six other consciousness, corresponding to the different sense faculties: visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental).

TIẾN TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CỦA CÁC NGUYÊN TỐ TRONG TÂM VÀ TRONG CÁC TRUNG HỮU

Rỗng thông, chiếu sáng, và vô hạn trong tiềm năng, tâm có thể được thông hiểu như có năm phẩm tính căn bản: tính chân không diệu viên, tính động chuyển, tính trong sáng, tính tương tục, và tính an định (Empty, luminous, and infinite in potential, mind can be understood as having five basic qualities: emptiness, mobility, clarity, continuity, and stability). Mỗi tính này tương ứng với năm nguyên tố chính (= năm đại) theo thứ tự, gồm hư không, khí, lửa, nước, và đất. Chúng ta đã miêu tả tâm chẳng ở trong trạng thái một sự-sự vật-vật có thể sờ mó được: nó thì chẳng quy định được (indeterminate; không bờ mé quy định), hiện diện mọi nơi, mọi thời (omnipresent), và phi chất liệu (immaterial); tâm là chân không diệu viên, với bản chất của hư không. Những tâm niệm và những trạng thái tâm ý khởi sinh một cách liên tục trong tâm; sự động chuyểngiao động này là bản chất của nguyên tố khí. Hơn thế nữa, tâm thì trong suốt sáng tỏ, nó có thể nhận biết, và tính giác chiếu quang chiếu trong sáng đó là bản chất của nguyên tố lửa. Và tâm thì tương tục; những trải nghiệm của nó là một dòng không gián đoạn của những tâm niệm và những nhận thức. Tính tương tục này là bản chất của nguyên tố nước. Nói đến sau cùng, tâm là nền tảng hoặc cơ sở từ nó sinh khởi sự-sự vật-vật khả tri trong sinh tử tương tục cũng như trong niết bàn, và phẩm tính này là bản chất của nguyên tố đất.

Năm phẩm tính của tâm thanh tịnh (pure mind) cũng có bản chất của năm nguyên tố. Nhập vào những huyễn tượng và tính nhị nguyên đối đãi, tâm thì bị chuyển đổi, nhưng những sản phẩm của tâm bảo tồn bản chất của năm nguyên tố trong những phương diện khác biệt. Tất cả những ứng hiện là sự trình diễn của tâm trong những sự biến hoá của năm nguyên tố chính. Nhiều hơn thế nữa, có những năng lượng vi tế cung cấp bảo dưỡng tâm và những đột biến của tâm, được gọi một cách theo truyền thống là những gió hay những khí (winds or airs). Tâm, thức, hằng hà sa số những trải nghiệm khác biệt được sinh ra bởi những năng lượng khí này; những năng lượng khí này không thể phân biệt được với tâm và là năng lượng làm sinh độngảnh hưởng chúng.

Năm phẩm chất căn bản của tâm vừa mới được miêu tả tương ứng với năm khí rất vi tế, năng lượng của chúng ứng hiện trong tâm trong trạng thái năm quang sắc cảnh chiếu căn bản mà chúng được quy chiếu trong trạng thái cực vi tế. Chúng là, theo thứ tự, lam, lục, đỏ, trắng, và vàng. Những quang sắc cảnh chiếu này bắt đầu ứng hiện ở thời điểm khi tâm thức được tái an lập ở vào lúc cuối của trung hữu của tính không. Chúng tạo thành tiến trình “sinh”, sự ngoi lên của thức nhị nguyên đối đãi. Những trải nghiệm và những phóng chiếu của tâm thức sinh khởi một cách sau đó từ năm quang sắc cảnh chiếu; chúng (năm quang sắc cảnh chiếu) tạo ra những hiện tướng của năm nguyên tố và những hiện tướng này được nhận thức xuyên qua huyễn tượng trong trạng thái thân ý sinhthế giới bên ngoài.

Tất cả những hiện tướng hư huyễn mà tâm thức trải nghiệm, một cách căn bản, chúng là những hoá hiện (emanations) của tâm, sự ứng hiện (manifestation) của năm nguyên tố chính, một cách khởi đầu, duyên hội xảy ra trong trạng thái những phẩm chất căn bản của tâm, sau đến trong những khí và những quang sắc cảnh chiếu (winds and luminosities) và cuối cùng trong trạng thái những hiện tướng (appearance). Mỗi một trong những mức độ này có bản chất của các nguyên tố khác biệt: hư không, khí, lửa, nước, và đất.

Tiến trình của sự cấu trúc tâm thức duyên hội xảy ra vào mỗi thời điểm (=sát na), trong tất cả những trạng thái của tâm thức của chúng ta, nhưng một cách đặc biệt ở vào lúc khởi đầu của trung hữu của hữu tái sinh. Lúc đó, trong suốt trung hữu đó, do sự trình diễn tương tác (interplay) của năm nguyên tố, tâm thức phóng chiếu hiện tướng của một thân ý sinh, một hình dáng vi tế mà thân ý sinh đồng nhất hoá nó trong trạng thái một chủ thể, trong khi đó vào cùng một lúc, nó phóng chiếu những đối tượng này, được nhận thức theo lối hư huyễn trong trạng thái thế giới bên ngoài (perceived in an illusory way as the outer world)

Thế nên chủ thể tâm thức này (consciousness subject), được đồng nhất hoá với thân ý sinh của nó, phát triển những quan liên với những phóng chiếu - hình dáng này mà chúng một cách theo thứ bậc được cấu trúc trong trạng thái những uẩn khác biệt: những thọ, những tưởng và những hành. Năm uẩn chúng cùng nhau hình thành một cá thể (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) thì được tạo lập như vậy. Nhưng ở vào giai đoạn này của trung hữu của hữu tái sinh, ý thức sống trọn vẹn tất cả những trải nghiệm của nó chỉ trong chính nó, và cá thể như vậy chỉ gồm có bốn và nửa uẩn. Trong cách thức này, những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh sẽ kéo dài cho tới lúc thụ thai. Vào thời điểm thụ thai, thức tái sinh (migrating consciousness) cấu tạo bởi bốn và nửa uẩn, kết hợp với những nguyên tố bên ngoài, hiện diện trong tinh dịch của người cha và trứng của người mẹ. Thế nên, phôi thai gồm tất cả năm nguyên tố trong những phương diện bên trong của chúng -- thức – và trong những phương diện bên ngoài của chúng, đến từ những giao tử của cha mẹ (gametes: giao tử; tế bào sinh dục). (So, the conceived embryo includes all five elements in their inner aspect – consciousness – and in their outer aspects, which come from the parent’s gametes).

Năm nguyên tố của hư không, khí, lửa, nước, và đất hiện hữu trong phôi thai, và sau đó trong thân vật lí, trong trạng thái những xoang trống, khí, ấm nóng, những chất lỏng, và những chất đặc, xét về một mặt, và về mặt khác, trong trạng thái những nguyên lí của sự giàn trải, tính động chuyển, năng lượng, tính ướt và sự kết chặt. Hình dáng sờ mó được mà thân thâu nhận được đó là phương diện thô của sắc uẩn; một cá thể tạo lập bởi năm uẩn thì được kiến tạo như vậy, và một cách từ từ sáu quan năng cảm thức phát triển -- mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc chạm, và tâm ý.

Trong cõi của những quan năng cảm thức khác biệt này của ý thức, hai phương diện, thanh tịnh và không thanh tịnh nổi lên.  Phương diện thứ nhất (=thanh tịnh) tiến hành từ bản giác (=tính giác bản nguyên= primordial awareness) và phương diện thứ nhì (= không thanh tịnh) từ tâm thức nhị nguyên đối đãi. Ý thức bị nhơ nhuốm và bị phiền não tiến hành từ tính nhận biết nhị nguyên đối đãi đi cùng với tất cả những thứ tiêu cực, tỉ dụ giận dữ, tham lam, vô minh, tham luyến, ghen tị, và kiêu. Về mặt khác, một ý thức tích cực sinh khởi từ bản trí (primordial wisdom) với những phẩm chất của trí tuệ bát nhã, đại bi, từ bi, và tín. Hai phương diện này của ý thức đều có khắp trong toàn thể sáu thức và những quan năng cảm thức. Điều này hình thành kết quả trong những trải nghiệm khác biệt của sáu loại đối tượng: những hình dáng, những âm thanh, những mùi, những vị, những đối tượng xúc chạm, và những tâm niệm.

Để phác họa một tương tự, thức căn bản (= thức thứ tám) thì giống như người chủ hoặc vị vua; ý thức giống như con trai của ông, hoàng tử; và các thức cảm quan giống như các đặc phái viên. Đây là cách chúng ta phân biệt tám thức như thế nào. Khi hoàng tử, hoặc ý thức bị nhơ nhuốm của chúng ta, cai trị trên sáu thức cảm quan, chúng đảm nhiệm chức năng quan liên với các đối tượng của chúng bằng đường lối của sáu quan năng cảm thức.

Sự tương tác của nhiều nguyên tố trong duyên khởi phát sinh ra vô số quan niệm kiểm soát thân, ngữ và tâm. Nhiều nghiệp khác nhau được tăng hoạt bởi những huyễn tượng này để lại những tập khí trong thức căn bản, rất giống như những hạt giống được gieo trồng trong đất. Và, giống như các thành tố tương liên khác nhau, chẳng hạn như phân bón, ánh sáng, và độ ẩm ướt chúng làm cho những hạt giống sản sinh ra một mùa gặt hái, những tập khí do nghiệp duyên lưu lại thức căn bản sản sinh ra một mùa gặt hái gồm đa số những cuộc đời hạnh phúc hoặc khốn khổ, tùy thuộc vào những tập khí này là tích cực hoặc tiêu cực.

__________________________________

Chú thích

1. Tâm thức = thức = ý thức = thức ý = Skt. vijnana = consciousness = mental consciousness = thức thứ sáu (= the sixth consciousness) = thức mạt na (Skt. manovijnana)

Thức thứ bảy = ý = mạt na = deluded consciousness

Thức thứ tám (the eighth consciousness) = thức căn bản (fundamental consciousness)= thức alaya = thức a lại da (Skt.alayavijnana)= tạng thức = tàng thức

Thức tái sinh = rebirth consciousness = migratory consciousness = migrating consciousness

Thân ý sinh = thân tâm ý = ý sinh thân = mental body

Thế giới tâm ý = mental world.

Trung hữu = trung ấm = the between = bardo (Tạng ngữ)

Trung hữu của Tính không = trung hữu của pháp tính = trung hữu của thật tại.

Reality (thật tại ) = Skt. dharmata (pháp tính)

Clear light = quang minh giác chiếu = basic primordial wisdom = bản trí=….

Lucidity: tính giác quang chiếu

Luminosity: tính giác cảnh chiếu

Năm quan năng cảm thức = Five sense faculties = Năm cơ quan cảm thức = five sense organs = mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân

2. Sáu thức và Tám thức

(Jeffrey HOPKINS. Meditation on Emptiness. Wisdom, 1997)

Các nhà Duy thức của Kinh tạnghọc phái phật giáo duy nhất chấp thuận tám thức: năm thức cảm quan, ý thức, một tâm bị nhơ nhuốm phiền não với chủ trương hữu ngã (Skt. klishtamanas = ý = mạt na) và một tạng thức (Skt. alayavijnana = thức alaya = thức a lại da). Những nhà Duy lí và các học phái phật giáo khác chủ trương chỉ có sáu thức với vài chức năng của thức thứ bảy và thức thứ tám do ý thức (=thức thứ sáu) đảm nhiệm. 

Định nghĩa của một nhà Duy thức là:

một người kính trình học giới thẩm định các kết luận cuối cùng của họ trong nghiên cứu giáo pháp phật giáo mà họ sử dụng suy lí để biện giải các đối tượng bên ngoài và chủ thể, đề xướng rằng những hiện tượng duyên khởi đó, chẳng hạn tâm thức, thực sự hiện hữu (=tồn tại).

The Chittamatra Followers of Scripture are the only Buddhist school to accept eight consciousness: the five sense consciousnesses, a mental consciousness, a mind afflicted with egoism (Skt. klishtamanas) and a mind-basis-of-all (alayavijnana). The Followers of Reasoning and all other Buddhist schools assert only six consciousnesses with some of the functions of the seventh and eighth being performed by the mental consciousness.

The definition of a Chittamatrin is:

A person propounding Buddhist tenets who uses reasoning to refute external objects and who asserts that dependent phenomena, such as consciousness, truly exist.

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness.Wisdom,1996)

3. Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch, in 2000, Đài Bắc

(6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục).

Chân như : Sanskrit: bhuta-tathata; tathata.

Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật.
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư không. Skt. akasa

(Phật quang đại từ điển. Thích Quảng Độ dịch. 2000 )

(1). Hư không: Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh, không bị chướng ngại.

(2). Hư không: Khoảng không bao la gồm có năm nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật.

Còn theo Tông kính lục quyển 6 thì Hư không có 10 nghĩa:

Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc.

(3). Hư không: Tên khác của Không giới. Chỉ cho khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới.

____________________________________

Kalu Rinpoche
The Eight Consciousnesses and the Five Principal Elements
Buddha nature is accompanied by seven consciousnesses, which we grasp at, resulting in duality. When that is recognized it will stop spreading.
Lankavatarasutra

____________________

In order understand clearly the connection between the teachings on mind and transmigration in the bardos, and to better understand these bardo processes, it might be helpful to consider the transformations that the mind undergoes throughout those phases.

Buddha nature or pure mind, that primordial wisdom, is, after all, emptiness, lucidity, and infinite possibility. It is the clear light, encountered by all beings at the end of the dissolution of consciousness at the moment of death, or, in the bardo of agony, followed by the bardo of emptiness.

This clear light or basic primordial wisdom has as its essence the five principal elements: space, air, fire, water, and earth. These transform when the mind and its manifestations are modified, as we will see.

When Buddha nature is obscured by ignorance, it becomes the universal ground of samsara. As such, it is called the universal or fundamental consciousness, or the eighth consciousness. It encompasses and pervades everything, and from it arise all the illusions of individual consciousnesses.

The development of delusion begins with the appearance of duality. The non-dual state of emptiness, lucidity, and unobstructedness splits up into subject-object duality and acts out of that perception. From emptiness arises the me-subject, from lucidity arises the sense of otherness, and from unobstructedness arise all relationships based on attraction, repulsion, and ignorance. With this split, contaminated consciousness or dualistic consciousness occurs – the consciousness that someone has something. It is referred to as contaminated because it is polluted with dualism, which is the seventh consciousness. This contaminated consciousness has an entourage of the six other consciousnesses, corresponding to the different sense faculties: visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental.

Alteration of the elements in the mind and the bardos

Empty, luminous, and infinite in potential, mind can be understood as having five basic qualities: emptiness, mobilitiy, clarity, continuity, and stability. Each of these corresponds respectively to the five principal elements of space, air, fire, water, and earth. We have already described mind as not being a tangible thing; it is indeterminate, omnipresent, and immaterial; it is emptiness, with the nature of space. Thoughts and mental states constantly arise in the mind; this movement and fluctuation is the air element’s nature. Furthermore, mind is clear; it can know, and that clear lucidity is the fire element’s nature. And mind is continuous; its experiences are an uninterrupted flow of thoughts and perceptions. This continuity is the water element’s nature. Finally, mind is the ground or basis from which arise all knowable things in samsara as well as nirvana, and this quality is the earth element’s nature.

The five qualities of pure mind also have the nature of the five elements. Entering into illusions and duality, the mind is altered, but the productions of the mind preserve the nature of the five elements in different aspects. All manifestation is the play of mind in the transformations of the five principal elements. Moreover, there are subtle energies sustaining the mind and its mutations, traditionally called winds or airs. Mind, consciousness, and myriad diverse experiences are produced by these wind energies; they are indistinguishable from mind and are the energy that animates and influences them.

The five basic qualities of mind just described correspond to five very subtle winds, whose energy manifests in mind as the five essential luminosities which are referred to as extremely subtle. They are, respectively, blue, green, red, white, and yellow. These luminosities begin to manifest at the moment when the consciousness is reestablished at the end of the bardo of emptiness. They make up part of the process of “birth”, the emergence of dualistic consciousness. The experiences and projections of the consciousness subsequently arise from the five luminosities; they produce the appearances of the five elements which are perceived through illusion as the mental body and the outer world.

All illusory appearances that the consciousness experiences are basically emanations of mind, the manifestation of the five principal elements, initially occurring as essential qualities of mind, then in the winds and luminosities and finally as appearances. Each of these levels has the nature of the different elements: space, air, fire, water, and earth.

The process of structuring the consciousness occurs at every moment, in all our states of consciousness, but particularly at the beginning of the bardo of becoming. Then, during that bardo, by the interplay of the five elements, the consciousness projects the appearance of a mental body, a subtle form with which it identifies as a subject, while at the same time it projects these objects, perceived in an illusory way as the outer world.

So this consciousness subject, identified with its mental body, develops relationships with these form-projections that are gradually structured as the other aggregates: sensations, representations, and factors. The five aggregates that together form an individual (forms, sensations, representations, factors, and consciousness) are thus created. But at this stage of the bardo of becoming, the mental consciousness lives out all of its experiences only within itself, and the individual thus composed has only four and a half aggregates. In this way, the experiences of the bardo of becoming will last up until conception. At the moment of conception, the migrating consciousness , made up of four and a half aggregates or heaps, combines with outer elements, present in the father ‘s semen and the mother’s ovum. So, the conceived embryo includes all five elements in their inner aspect – consciousness – and in their outer aspects, which come from the parent’s gametes.

The five elements of space, air, fire, water, and earth exist in the embryo, and then in the physical body, as cavities, wind, heat, liquids, and solids on the one hand, and on the other, as the principles of stretching, mobility, energy, fluidity, and cohesion. The tangible form that the body acquires is the gross aspect of the form heap; an individual made up of five heaps is thus created, and slowly the six sense faculties develop – visual, auditory, olfactory, gustatory, tactile, and mental.

In the realm of these different sense faculties of the mental consciousness, two aspects, pure and impure, emerge. The first aspect proceeds from primordial awareness and the second from dualistic consciousness. The contaminated and afflicted mental consciousness proceeds from dualistic awareness along with everything negative, such as anger, greed, ignorance, attachment, jealousy, and pride.. On the other hand, a positive mental consciousness arises from primordial wisdom with the qualities of wisdom, compassion, love, and faith. These two aspects of the mental consciousness extend throughout the six consciousnesses and sense faculties. This results in a variety of experiences of the six kinds of objects: forms, sounds, smells, flavors, tactile objects, and thoughts.

To draw an analogy, the fundamental consciousness is like the master or king; the mental consciousness is like his son, the prince; and the sense consciousnesses are like their emissaries. This is how we distinguish the eight consciousnesses. When the prince, or our contaminated mental consciousness, reigns over six sense consciousnesses, they function in relation to their objects by way of the six sense faculties.

The interaction of the many elements within dependent arising or tendrel gives rise to innumerable conceptions that control body, speech, and mind. The various karmas activated by these illusions leave imprints in the fundamental consciousness, much like seeds planted in the ground. And, like the various interdependent factors such as fertilizer, light, and moisture that cause the seeds to yield a harvest, karmic imprints left in fundamental consciousness yield the harvest of a mass of happy or miserable lives, depending upon whether those imprints are positive or negative.

_______________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17126)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38699)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21938)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 22028)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69854)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6906)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38774)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 44064)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44127)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42950)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44448)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23089)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39271)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21749)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42432)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35641)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46558)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30179)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30852)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26202)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20377)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25603)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18519)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17141)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40800)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21744)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25973)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41469)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24927)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23796)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15068)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19986)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37864)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19104)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17711)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23547)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36371)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40400)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19534)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21741)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46243)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35968)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28664)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28902)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32217)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26329)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33467)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24103)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24850)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54572)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant