Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Bộ phái Phật giáoĐại Thiên

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10324)
Tiết 2: Bộ phái Phật giáo và Đại Thiên

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG IV

A DỤC VƯƠNG VÀ ÐẠI THIÊN

TIẾT II. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO VÀ ÐẠI THIÊN

- Sao gọi là Bộ Phái?

Danh từ Bộ phái ở đây không như danh từ Tông phái của Trung Quốc vậy. Nguyên nhân là do cố thủ quan điểm luận mà xảy ra bất đồng nên có sự phân lập riêng biệt. Sự phân lập này dẫn đến những tính cách tương đồng, tương dị rất thú vị, ấy là tự nhiên mà hình tành nên đạo nghĩa kết hợp, hoặc đối lập. Từ đấy mà Bộ phái Phật Giáo thành hình. Ðiều đó diễn ra sau Phật nhập diệt khoảng trăm năm. Thực thì nguyên nhân xa của phân phái cũng đã xảy ra khi đức Phật còn tại thế. Ðiều đó được chép rõ trong kinh Tạp A Hàm quyển mười sáu. Kinh 447(11) đơn cử mười ba vị đại đệ tử của đức Phật. Nhưng vị này mỗi người đều có nhiều Tỳ kheo thân cận kinh hành. Những Thượng tọa nghe nhiều, thường thân cận ngài A Nhã Kiều Trần Như, những Tỳ kheo tịnh tu khổ hạnh đầu đà thường thân cận ngài Ðại Ca Diếp; những vị đại trí biện tài, thường thân cận ngài Xá Lợi Phất; những vị có sức mạnh thần thông, thường thân cận ngài Mục Kiền Liên, những vì có thiên nhãn minh triết, thường thân cận ngài A Na Luật, những vị tinh tấn dũng mãnh, thường thân cận ngài Nhị Thập Ức Nhĩ (Scronakotivimsa), những vị vì đại chúng mà tu sửa cúng cụ, thường thân cận ngài Ða Phiêu, những vị hành trì thông đạt Luật nghi, thường thân cận ngài Phú Lâu Na, những vị đa văn tổng trì, thường thân cận ngài A Nan, những vị giỏi phân biệt các kinh, khéo thuyết giảng pháp tướng, thường thân cận ngài Ca Chiên Diên, những vị mật hạnh nghiêm cẩn hành trì giới luật, thường thân cận ngài La Hầu La, những vị thường tụ tập tăng chúng để nói và làm những điều sai quấy, thường thân cận ngài Ðề Bà Ðạt Ða. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 46, (Phóng Ngưu Phẩm) kinh thứ ba, phẩm 49(11) cũng nói: “Nên biết căn nguyên của chúng sinh đều là “tự tương loại”, những kẻ ác hành thường theo với nhau; những người thiện hạnh cũng thế”. Chỉ có điều, lúc đức Phật còn tại thế, cửa với nhà chưa bị đứng riêng. Ðến lần tập kết thứ nhất, mới bắt đầu thấy cửa là cửa, nhà là nhà; và sau lần Thất Bách kết tập mới lộ rõ việc phần thành hai Bộ. Mãi đến thời vua A Dục, và sau đó Ðại Chúng Bộ một lần nữa bị chia cắt. Sự chia cắt lần này về mặt niên đại, thì tư liệu của Nam truyền và Bắc truyền sai khác nhau cả trăm năm. Ðại Chúng Bộ tuy bị chia cắt, nhưng lại tương đồng, nhưng thuyết về sự khởi tranh của tặc trú Tỳ kheo là giống nhau, trong đó có liên quan đến sự kiện Ðại Thiên.

- Hai vị Ðại Thiên.

Ðại Thiên tên tiếng Phạn là Ma Ha Ðề Bà (Mahàdeva). Sự tích nói về Ðại Thiên, xin đọc “Dị Bộ Tông Luận”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, tất cả các bộ nêu trên đều nói đến sự việc sau Phật diệt dộ hai trăm năm, có ngoại đạo tên là Ðại Thiên xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ. Người này sống ở núi Chi Ðề (Caityagiri), còn có tên là núi Chế Ða. Trong bộ Ma Ha Tăng Kỳ, ông lại là người kiến lập thêm ba Bộ nữa. Lại nữa, Ðại Ðường Tây Vực Ký, quyển ba(12) chép: Sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, có xuất hiện nhân vật tên Ðại Thiên, ông là người khoát đạt đa trí, ngẫm muốn có thực danh, nên suy nghĩ sâu xasáng tác luận nghĩa trái nghịch với Thánh giáo, khiến vua Vô Ưu (tức vua A Dục) không rõ đâu là phàm, đâu là thánh, nên đồng tình với luận điểm của Ðại Thiên, cho Ðại Thiên được thân cận, nương cậy ông; đồng thời vua A Dục lại có ý muốn giết các Thượng tọa thánh tăng. Thánh Tăng là những vị đã đắc quả A la hán nên quí ngài nhận biết ý sát của vua A Dục, bèn vận dụng thần thông đi đến nước Ca Tháp Di La. Cạnh dó luận Ðại Tỳ Ba Sa - quyển 99 của Hữu Bộ(13), còn công kích Ðại Thiên dữ dội hơn, cho rằng Ðại Thiên là người dâm dục với mẹ đẻ, giết A la hán, rồi giết luôn mẹ đẻ; và ông phạm cả ba tội Vô gián. Ðồng thời luận này còn chỉ trích Ðại Thiên là người gây ra cuộc tranh cãi “Ngũ Sự” đầy vọng ngôn.

Tất cả các việc nêu trên đều xuất phát từ truyền thuyết của Thượng Tọa Bộ; sự thực không hẳn như vậy, bởi hai người cùng có tên Ðại Thiên cách xa nhau cả trăm năm. Tiếc là về sử liệu, Ðại Chúng Bộ không còn lưu lại điều gì để có thể dựa vào tham khảo. Quả như các việc trên là thực, thì người có tên là Ðại Thiên đã phạm ba ba tội Vô gián, và đời sau gọi ông là Ðại Thiên ngoại đạo xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ. Nhưng cả Hữu Bộ và Ðại Chúng Bộ lại đứng trên lập trường lưỡng cước khi nói về Ðại Thiên. Do đó, đối với việc Ðại Thiên phạm ba tội Vô gián chỉ là vu khống. Trên thực tế, thời đại đương thời Ðại Thiên là người đi trước về tư tưởng tiến bộ. Tuy ông bị các vị Kỳ túc Thượng tọa công kích, nhưng ông được đa số đại chúng ủng hộ. Lúc con vua A Dục là Ma Sẩn Ðà xuất gia, ông này thỉnh ngài Ðế Tu của hệ Phân Biệt Thuyết làm Hòa thượng, mời ngài Mạt Lan Ðề của Hữu Bộ làm cụ túc giới A Xà Lê, và ngài Ðại Thiên của Ðại Chúng Bộ làm thập giới A Xà Lê(14). Như thế đủ thấy vua A Dục không thiên vị bên nào, và Ðại Thiên cũng không phạm ba tội Vô Gián như truyền thuyết của Hữu Bộ. Lại càng không đúng với truyền thuyết nói rằng: Vào thời vua A Dục, Phật pháp long thịnh và tứ sự cúng dường rất nồng hậu. Do đó, đa số ngoại đạo vì miếng ăn cái mặc mà xin xuất gia theo Phật Giáo, nên gọi số này là “tặc tu”. Ðồng thời họ cũng khởi sự phân tranh khiến vua A Dục phải triệu tập chúng lại để kiểm nghiệm. Trong số đó có ba trăm người thuộc loại ngoại đạo thông minh. Họ thông đạt cả Tam tạng thánh điển, nên không còn cách nào khác, vua A Dục đành cho họ ở riêng một trú xứ, trong số này có một vị tên là Ðại Thiên, sống ở núi Chế Ða. Ông này lại cùng với Ðại Chúng Bộ nghị luận Ngũ Sự. Nhân đây Ðại Chúng Bộ bị chia thành ba Bộ.

Tất cả chỉ là truyền thuyết nên rất khó phân biệt được chân, ngụy. Nhưng ngày nay chúng ta có thể xác tín rằng; Ðại Thiên không phải là tặc trú Tỳ kheo, cũng không phải ông bị vua A Dục là Ma Sẩn Ðà thỉnh mời làm A Xà Lê(14). Trước đó ông cũng đã theo tăng chúng đến tu ở núi Chế Ða. Ông cũng từng phụng mệnh vua A Dục đi đến Ma Ê Bà Mạt Ðà La (nay là Mại Sách Nhĩ), và ông cũng đã cùng các vị như Mạt Lan Ðề cả thảy tám vị đại đức được phái đến các địa phương để hoằng hóa Phật pháp. Như vậy, ông không phải là người trái nghịch thánh giáo.

- Ðại Thiên Ngũ Sự.

Ðại Thiên Ngũ Sự là trọng điểm mà Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ công khai tranh luận một cách quyết liệt. Ngay vào thời vua A Dục nó được tranh luận một cách minh xác. Ðại khái, Ðại Thiên là nhân vật ra đời sau Phật nhập diệt khoảng từ trăm năm đến hai trăm năm, thì xảy ra chuyện Ðại Chúng Bộ tôn trọng “Ngũ Sự”. Do vì Ngũ Sựliên quan đến Ðại Thiên, nhưng không hẳn Ðại Thiên là chủ sự. Nhân vấn đề tranh luận “Ðại Thiên Ngũ Sự” rồi cho rằng Ðại Thiên xuất hiện sau Phật nhập diệt hai trăm năm. Thiết tưởng điều trên chỉ là truyền nhầm.

- Sao gọi là Ðại Thiên Ngũ Sự?

Ðó là năm việc liên quan đến thánh cảnh của thân tâm A la hán. Luận Ðại Tỳ Bà Sa quyển 99(15) của Hữu Bộ nói: “Ðại Thiên tự mình chưa chứng quả A la hán, nhưng nói là mình đã chứng A la hán quả. A la hán là người đã ly dục, nhưng Ðại Thiên đêm ngủ vẫn còn bị mộng tinh, đệ tử được ông ký biệt là đã chứng quả, nhưng bản thân đệ tử chưa từng tự biết chứng quả gì, nên vẫn cứ nghi hoặc Lý đán, A la hán và vị luôn sống an vui giải thoát, nhưng Ðại Thiên khi đêm đến thường hô lớn khổ quá, khổ quá. Ðem năm việc trên ra lượng định, biết là Ðại Thiên vọng ngôn”.

Theo Hữu Bộ, thì năm việc ấy là:

1. Ðại Thiên vì tư duy bất chính nên mới thoát thất bất tịnh (mộng tinh).

2. Ðại Thiên vì muốn nâng đỡ đệ tử mình mà loạn tác ký biệt, nói là đệ tử đã chứng bốn thánh quả Sa Môn.

3. La hán là người đã chứng đắc vô lậu, dứt đoạn tất cả mọi nghi hoặc. Vậy sao lại nói quả vị La Hán còn nghi hoặc?

4. La hán là người đã chứng đắc thánh huệ; tại sao lại nói tự mình không biết là đã chứng quả La hán hay chưa?

5. Thánh đạo vô lâu, vậy lý đáng phải y vào gia hạnh vịhiển hiện, sao lai còn than khổ quá, khổ quá, như thế làm sao sinh khởi được nhân của thánh đạo giải thoát? Như vậy đủ thấy những điều vừa nêu nói lên sự vọng ngữ của Ðại Thiên.

Ðã vậy, Ðại Thiên còn đem ngũ sự do ông xướng xuất biên thành một bài, và hướng về chúng đệ tử tuyên dương một cách sâu rộng: “Dư sở dục, vô tri, do dự tha linh nhập, đạo nhân thinh cố khởi, Thị danh chơn Phật Giáo”.

- Ngũ sự không là vọng ngôn.

- Lý do việc được Ðại Thiên đề ra Ngũ Sự:

1. “Dự sở dụ”, bậc A la hán tuy không còn bị phiền não về dâm dục, nhưng vẫn bị “lậu thất bất tịnh”, tức có ác ma lấy vật bất tịnh định đặt vào y của La hán.

2. “Vô Tri”, vô tri là không biết có nhiễm ô và không nhiễm ô. Bậc La hán mà chưa đoạn tận được bất nhiễm ô, thì đó là vô tri.

3. “Do dự”, nghi có hai thứ là xứ và phi xứ sẽ trình bày riêng. Bậc La hán chưa đoạn tận (dứt sạch) được nghi hoặc về xứ và phi xứ, thì tuy là bậc thánh Ðộc giác nhưng vẫn có cái “hoặc” này.

4. “Tha linh nhập”, bậc La hán cũng phải dựa vào ký biệt của người khác, mới biết được mình là La hán, chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất là người có trí tuệ bậc nhất, ngài Mục Kiền Liênthần thông bậc nhất, nhưng cũng phải dựa vào sự thọ ký của đức Phật mới biết được mình đã giải thoát.

5. “Ðạo nhân thinh cố khởi”, chí thành xướng niệm khổ quá, thì thánh đạo mới hiện khởi, “khổ” được nói ở đây với”khổ” trong tứ thánh đếliên quan với nhau. Quán khổ, không, vô thường, vô ngã, thì đó là thánh đạo.

Về bản chất của “Ngũ Sự” mà nói, thì ngũ sự khó mà luận rằng đó là vọng ngôn để có thể loại bỏ. Bởi khi nói La hán là bậc ly dục, đó là nói về tâm lý. Nhưng về mặt sinh lý chưa hẳn là khác với người phàm, huống nữa là vấn đề di thất bất tịnh. Vì có lúc là mộng di, có lúc không mộng vẫn cứ “di” ; hoặc có vị do thân bệnh mà “di”. Việc di tinh của người nam giống như chuyện nguyệt tín của người nữ mà thôi.

Thời Phật tại thế có vị nam La hán nhân mắc bệnh phong khiến “dương cử”, phải tìm đến dâm nữ giải quyết (trị bệnh). Cũng có vị La hán ni vẫn còn nguyệt tín nên phải đến hồ nước dùng vải bố mà rửa. Nếu căn cứ theo giới luật nguyên thỉ để suy luận, thì năm việc được Ðại Thiên đưa ra, không có việc nào là không lập thành. Chi do các vị luận sư của Hữu bộ không nghiên cứu một cách thực tế nên sinh ra việc lấy người bỏ lời (dĩ nhân phế ngôn). Chuộng cái giống mình, công kích cái khác mình, và như vậy mà kết luận Ngũ Sựvọng ngôn e không mấy thuyết phục.

Vả lại, “Ðại Thiên Ngũ Sự” cũng không hẳn là do Ðại Thiên sáng tác một cách độc lập, trong bộ “Luận Sư” của Nam truyền(16) cũng có truyền về Ngũ Sự. Trong luận thuyết của ngài Tam Tạng Chơn Ðế của Bắc truyền và của Tây Tạng cũng có nói đến Ngũ Sự, nhưng chú thích không giống nhau. Thời gian gần đây các nhà học giả thấy rằng Ngũ Sự nói chung, các bộ thuộc Ðại Chúng Bộ đều có nói đến; Ðại Thiên chẳng qua chỉ là người đem Ngũ Sự kết tập lại thành một loại, rồi dùng kệ tụng để trình bày.

Nghiên cứu kỹ, thì quả vị La hán quả đúng là người phi thường mới có thể vượt qua (chứng đắc). Nhưng đời sau lấy cảnh giới lý tưởng của La hán biến thành vấn đề cao siêu không dễ gì mong đạt tới được; tương tự như việc dương cao Bộ phái trong lúc hình thành, thẩm sát các vị La hán thời Phật tại thế, chưa hẳn quí ngài đạt đến trình độ cao siêu như vậy.


(1) Ðại Chánh tạng-27, cuối trang 511.

(2) Sắc dụ, sắc lệnh.

(3) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 684.

(4) Ðại Chánh tạng-24, cuối trang 684 đến đầu trang 685.

(5) “Ấn Ðộ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(6) “Ấn Ðộ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(7) ) “Thập Bát Bộ Luận”, Ðại Chánh tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một trăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I - Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 678.

(8) “Thập Bát Bộ Luận”, Ðại Chánh Tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một ttrăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I-Ðại Chánh Tạng-24, giữa trang 678.

(9) Ðại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(10) Ðại Chánh Tạng-51, trang 886

(11) Ðại Chánh Tạng-2, đầu trang 115 đến giữa trang 115.

(11) Ðại Chánh Tạng-2, đầu trang 796.

(12) Ðại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(13) Ðại Chánh Tạng-27, giữa trang 510 đến giữa trang 511.

(14) Luật Thiên Kiến - quyển 2, Ðại Chánh Tạng-24, đầu trang 682.

(14) A Xà Lê có nghĩa là Quĩ phạm sư - người thầy mẫu mực khuôn phép.

(15) Ðại Chánh Tạng-27, từ giữa trang đến cuối trang 511.

(16) Nam truyền Ðại Chánh tạng Kinh quyển 57, từ trang 221-258.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28197)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6693)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8790)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9320)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15390)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8258)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8685)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16737)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26985)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18685)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15660)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22544)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19479)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18360)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16210)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25651)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12888)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20096)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10718)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10033)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10562)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10396)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11045)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15239)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10848)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19700)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11711)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10786)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11250)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10111)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10568)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11558)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10895)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11408)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12164)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11066)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13023)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17785)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15244)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15721)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11005)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11049)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21856)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9183)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20184)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant