Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 1: Phân hệ và phân phái

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9981)
Tiết 1: Phân hệ và phân phái

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG V
SỰ PHÂN CHIA BỘ PHÁI PHẬT GIÁO

TIẾT I. PHÂN HỆ VÀ PHÂN PHÁI

- Tứ chúng.

Nguyên nhân của việc phân phái được khởi đi từ nhiều hệ tư tưởng không giống nhau. Vấn đề này, chương trước đã có nói đến ít nhiều. Ðến thời vua A Dục, việc phân phái là từ “Tứ Chúng” chứ không phải từ hai Bộ.

Luận Dị Bộ Tông Luân và Bộ Chấp Dị Nghị(1) đều nói là do Tăng chúng phân rã mà thành Tứ chúng.

Ngài Liên Hoa Sinh và ngài Ðiều Phục Thiên v.v... khi truyền Phật giáo vào Tây Tạng cũng nói sau Phật nhập diệt một trăm mười sáu năm, các đệ tử Phật dùng bốn thứ ngôn ngữ để tụng giới. Nhất Thiết Hữu Bộ dùng Nhã ngữ (ngôn ngữ của người Aryan) để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài La Hầu La. Ðại Chúng Bộ dùng Tục ngữ để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ðại Ca Diếp. Chánh Lượng Bộ dùng Tạp ngữ để tụng giới (người làm thịnh hành hệ Ðộc Tử). Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ưu Ba Li. Thượng Tọa Bộ dùng (tiếng địa phương vùng trung Ấn Ðộ) Quỷ ngữ để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ðại Ca Chiên Diên. Việc tụng giới khác ngôn ngữ của Tứ Chúng cũng được học giả Bố Ðốn của Tây Tạng nói đến trong cuốn “Phật Giáo Sử” do ông trước tác (Historyof Buddhism by Buston).

Bộ luận Dị Bộ Tông Luân, được ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn(2) cũng nói đến Tứ chúng, đó là:

1. Long tượng chúng, gồm những vị nghiêm trì giới luật, như các học đồ của ngài Ưu Ba Li.

2. Biên Bỉ chúng, gồm những vị phá giới, như “giòng” của Ðại Thiên.

3. Ða Văn chúng, gồm những vị Tỳ kheo giữ lời Phật dạy, như các học đồ của ngài A Nan.

4. Ðại đức chúng, gồm những vị đại luận sư, họ như học đồ của ngài Phú Lâu Na.

Thuyết nói về sự phân phái vị tất đã chính xác, nhưng ít nhất nó cũng nêu rõ nguyên nhân về ngữ ngôn, về địa vức, và về sự kế thừa học lưu. Bởi tất cả đều liên quan đến sự xuất hiện của các phái.

- Bốn Ðại phái và Ba Hệ lớn

Việc thanh lý hệ thống Bộ phái Phật giáovấn đề khiến nhiều người phải đau đầu. Nhưng, nhờ ứng dụng phương pháp khoa học để khảo sát, vấn dề ấy mới được điều lý.

Theo nghiên cứu của pháp sư Ấn Thuận - người Tung Quốc. Ông đem Bộ phái Phật giáo chia ra thành bốn phái, ba hệ, hai bộ và một vị(3) theo biểu dưới đây:

 

blank

Biểu đồ trên là cơ sở của Bộ phái Phật giáo, dù phân thành Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ, nhưng tất cả hai mặt đều đặt nền tảng căn bản trên giáo lý của đức Phật.

Một chi của Thượng Tọa Bộ thuộc hệ phía đông, lại phân biệt tư tưởng của Thượng Tọa Bộ và của Ðại Chúng Bộ, từ đó mà có sự “lấy, bỏ”. Nên có tên là hệ Phân Biệt Thuyết. Hệ này đứng trên lập trường của Thượng Tọa Bộ, nhưng có phần hấp thu tư tưởng tiến bộ của Ðại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ của tây hệ, do sinh hoạt ở vùng tây bắc Ca Thấp Di La có phần nhỏ hẹp, lại không tiếp xúc với phía đông; vì vậy, họ độc lập phát triển, và rồi hình thành nên tư tưởng Hữu Bộ bên trong có sự phân rẽ, và thêm một phân phái nữa. Theo sự truyền thừa của Ðại Chúng Bộ, thì sau này Hồng Y (Tích Lan Ðồng Diệp) Bộ, Pháp Tạng Bộ, Ẩm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, đều thuộc về hệ Phân Biệt Thuyết. Những Bộ này không phản đối Ðại Chúng Bộ một cách cực đoan. Về sau Ðại Chúng Bộ chuyển xuất thành Ðại Thừa Phật giáo, Thánh điển của Hệ Phân Biệt Thuyết ít nhiều cũng có khuynh hướng Ðại thừa. Chẳng hạn như Pháp Tạng Bộ (còn gọi là Ðàm Vô Ðức Bộ) tuy xuất hiện muộn hơn các Bộ khác, nhưng Bộ này lại thuộc về “Tứ Phần Luật”, vì vậy pháp sư Ðạo Tuyên của Tung Quốc cho là Bộ này thông với Ðại thừa. Ðiều đó có nguyên nhân xa hơn.

- Sự phân biệt Chi Mạt.

Sở dĩ gọi là phân biệt (tách ra) chi mạt là vì Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia rồi, nay lại phân chia thêm nữa. Vì vậy, mới có nhị bộ, tam hệ, tứ bộ, thập bát bộ, nhị thập bộ, Nam truyền thì có hai mươi bốn bộ nối tiếp nhau xuất hiện. Trong tư liệu của Bắc truyền, có nói đến việc phân chia bộ phái, đó là: giáo đoàn bạt Bối Lạt (Bhavya) được truyền tại Tây Tạng, “Văn Thứ Lợi Vấn Kinh”, “Xá Lợi Phất Vấn Kinh”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, Ðại Chúng Bộ thì có “Dị Bộ Tông Tinh Thích” do Thanh Biện tạo, tất cả các kinh, luận vừa dẫn đều có nói đến việc phân chia Bộ phái Phật giáo. Theo học giả Mộc Thôn Thái Hiền - người Nhật Bản, thì việc phân chia Bộ pháiliên quan đến tám truyền thuyết khác nhau.

Trong đó lấy “Ðại Sử” của Nam truyền, Hán dịch thì lấy “Thập Bát Bộ Luận”(4) của Hữu Bộ, dịch vào đời nhà Tần, “Bộ Chấp Dị Luận”(5) dịch vào đời nhà Trần(6), “Dị Bộ Tông Luân Luận”(7) được dịch vào đời nhà Ðường, và “Dị Bộ Tông Tinh Thích” của Ðại Chúng Bộ làm trọng yếu. Ngoài ra cũng có thể tham khảo sự truyền thừa của Chánh Lượng Bộ.

Sách này chỉ nhân vào “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” được truyền tại Tây Tạng và “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” nói về việc phân phái, cả hai bộ kinh vừa nêu cùng với thuyết của Hữu Bộ giống nhau, do đó cho nên chỉ lướt qua. Trong ba bộ luận của Hữu Bộ, thì lấy “Dị Bộ Tông Luân Luận”(8) làm đại biểu. Nay xin liệt kê thành bốn biểu đồ sau:

1. “Ðại Sử” Chương V, được truyền bởi Thượng Tọa Bộ thuộc hệ Phân Biệt Thuyết của Nam truyền.

 

blank

blank

Chú: Các phái của Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ, phải sau Phật diệt độ từ một trăm đến hai trăm năm mới phân chia; Tuyết Sơn Bộ trở lui, thì sau khi còn các phái của Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia mới hình thành.

blank

Biểu đồ II: “Dị Bộ Tông Luân Luận” được truyền bởi Hữu Bộ thuộc hệ Thượng Tọa Bộ của Bắc truyền.

blank

blank

Biểu đồ III, “Dị Bộ Tông Tích Thích” do Thanh Biện tạo, được truyền bởi hệ Ðại Chúng Bộ.

blank

blank

Biểu đồ IV. Ðược truyền bởi Chánh Lượng Bộ: Ðại Chúng Bộ trước sau sáu bộ, đều được truyền bởi hệ Phân Biệt Thuyết, chỉ có điều là Bộ Kê Dẫn xưng là Ngưu Gia, và Bộ Chế Ða Sơn được xuất từ Bộ Ngưu Gia.

blank 

- Suy định về việc phân Bộ

Theo những biểu đồ trên, có thể nói một cách hiển nhiên; ấy là các thuyết được nói ở phần trước có sự hỗ tương qua lại, để cuối cùng không thể lấy thuyết nào làm chuẩn chung cho tất cả, bởi ý kiến của Luận giả có sự bất nhất. Vì các phái, phái nào cũng lấy lập trường của phái mình làm chính, và đều muốn đề cao sự xuất thân của Bộ phái mình, đồng thời cũng lấy lập trường của phái mình để thuyết minh. Do đó, chúng ta không nên tận tín và sự thuyết mình của một “nhà”, cũng không bỏ bất kỳ sự thuyết minh của một “nhà” nào, mà tập hợp tất cả mọi thuyết minh của các nhà để thẩm tra, suy luận. Có vậy chúng ta mới tiến đến gần diện mạo của lịch sử một cách khả tín. Ngày cả việc thẩm tra, suy luận, chúng ta cũng cần dựa vào trí tuệ của bản thân để đoán định.

Về đại thể mà nói, những tư tưởng được truyền bởi các nhà, đa phần họ đều dùng “Tự tông” làm cơ sở cho Bộ phái mình. Hệ Phân Biệt Thuyết tự lấy Thượng Tọa Bộ làm cơ sở. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cũng lấy “Tự tông” làm “Căn bản” cho Bộ mình. Ðây là nói về mặt chủ quan. Do đó, đối với việc phân phái theo thứ lớp của Thượng Tọa Bộ, thì nên theo những gì có phần khả tín, và được truyền bởi Ðại Chúng Bộ. Vì Ðại Chúng Bộ đứng trên quan điểm khách quan, và không mang thành kiến tự tông (lập trường của tông phái).

Nay xin lấy tiết hai và ba của chương sáu trong bộ “Phật Giáo Ấn Ðộ” của Pháp sư Ấn Thuận và bài Tự luận về “Nghiên cứu luận thư và luận sư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ làm chủ yếu” cũng của Ấn Thuận để giới thiệu như sau:

 

blank

 blank

Về mặt suy định, thì nên nhất trí với những gì được nhiều thuyết đồng quan điểm, lấy đó làm định thuyết, còn như các thuyết lại có sự khác nhau, thì nên đứng trên phương diện khách quan để tham khảo, suy luận, và tìm hiểu tường tận đặc tính của tông thuyết ấy, rồi dùng mối quan hệ hỗ tương trước sau làm chuẩn qui. Có như vậy sự so sánh mới có thể chấp nhận được. Ðể nắm rõ vấn đề nêu trên, xin đọc nguyên tắc của pháp sư Ấn Thuận, ở đây chỉ giới hạn, nên có tính sơ lược
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14318)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14578)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11854)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14375)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14653)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25282)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27919)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26389)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17248)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16537)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15933)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22165)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17147)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24950)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22006)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19089)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16180)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16800)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14679)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16724)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25042)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18794)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21203)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14380)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16628)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18021)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12939)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14955)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12733)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13899)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14620)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28059)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27235)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14360)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20999)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14676)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24214)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28728)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14747)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13307)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16470)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27272)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12025)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant