Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

32. Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu nghệ thuật

30 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9232)
32. Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu nghệ thuật

Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu nghệ thuật

Hương Trí - 2007

Xem đại lượng thi phẩm của Mặc Giang, người viết nhận thấy tác giả khá thành công trong việc xây dựng tính nghệ thuật khi mô tả, trình bày, diễn giải, hay tỏ bày tình cảm đối với một cảnh huống, một nội dung nào đó. Cho thấy, đối với yêu cầu của một bài thơ, người thơ Mặc Giang tỏ ta khá nghiêm túc. Có thể nói, thơ Mặc Giang là điển hình của triết lý hiện sinh, viên dung các giá trị nghệ thuật đặc trưng của thế giơí thi ca. Hay nói khác hơn, là nơi tụ hội sự thống nhất tập trung thuần nhất giữa tư tưởng nội dung với thủ pháp nghệ thuật.

Từ phong cách sáng tác, một trong những thành tựu đặc sắc trong thơ Mặc Giang là giá trị hiện thực. Xưa nay, thi nhân Việt Nam viết thơ tự sự không nhiều, đề cập đến đời sống quần chúng cũng ít. Về phương diện này, có thể nói rằng, Mặc Giang đặc biệt thể hiện khá sinh động, gần như toàn diện. Mặc Giang có những trải nghiệm cuộc sống rất phong phú, mà mỗi lần xúc cảnh là mỗi lần biến thành sức thần cho ngọn bút tuôn chảy giữa thế giới thơ muôn màu và tánh thể vô biên của tình thương. Thơ Mặc Giang có rất nhiều bài đến từ cuộc sống, từ tâm hồn biết hoà nhập dịu xoa nỗi khốn khổ cho đời. Hay đó chính là từ chân thành nhiệt huyết khắc khoải ngóng trông của cái nhìn “mờ mắt lệ viếng thăm dòng sinh tử”, ấp ủ nâng niu tình người. Tất cả như đang tuôn chảy không mệt mỏi, không điểm đích về trang đời, hay chính là những trang thơ hiện thực.

Mỗi câu thơ, ý thơ, tứ thơ của Mặc Giang, là một hướng sống đẹp, một ý chí vực dậy giữa dòng sống với bao yếu hèn mộng mị. Hay đó chính là sự thẩm thấu sâu xa những thanh âm, những màn đêm vụn vỡ, kinh hoàng của kiếp sống bèo bọt, tương tác trên chuỗi biến hiện thành-trụ-hoại-không này. Do đó, những áng thơ về hiện thực của Mặc Giang là luôn viết về những nghiệt ngã thương đau, buồn tẻ của bao mảnh đời chỉ biết vùi chôn trong bóng đêm, trong ngõ cùng không lối thoát. Qua đó, cho thấy, thơ hiện thực của Mặc Giang luôn là những dư âm, tàn tích, là gương soi dòng tâm đang phản chiếu bóng dáng hình hài của dòng hiện sinh, rồi dâng tràn trong khối óc, chảy dài trong huyết mạch. Tất cả như đang từng hồi gõ theo nhịp đập cảm xúc, theo bao tang thương không lường. Thơ Mặc Giang chân thật cụ thể phản ánh cuộc sống hiện thực một cách rất hình tượng, rất sống động, như một hiện cảnh đang dàn trải trước không gian không bến bờ.

Tuôn chảy từ kết tinh của lô trình tương duyên đó, nên môt trong những nghệ thuật sáng tác của người thơ Mặc Giang, là chọn cho mình thủ pháp biểu hiện chủ nghĩa hiện thực của cuộc sống đang là này. Đây là một trong những nguyên nhân nội tại đặc sắc, khiến nguồn thơ Mặc Giang ra đời với số lượng choáng ngợp, với chất lượng như dấu ấn trải dài vun vút trên cán cân công lý và cung đàn tình thương; khiến người đọc thêm trân quý, phân tích, suy tư, nghiền ngẫm để dừng gót chân phiêu lãng đi kiếm tìm hoá thành giữa phố phường mộng ảo.

Một trong những đặc sắc trong thơ hiện thực Mặc Giang, là biểu hiện rất nổi bật, phong phú và hoàn chỉnh trong cảnh tượng, cũng như âm sắc gợi hình gợi tả. Do đó, thơ tự sự và thơ trữ tình của Mặc Giang là nét son ấn lên những trang thơ hiện thực của dòng thơ Việt Nam. Nó là sông núi, là suối nguồn, mãi mãihơi thở của tất cả hiện hữu của dòng chảy sinh mệnh.

Tìm vài đặc điểm chủ nghĩa hiện thực trong thơ Mặc Giang, người viết chỉ khiêm tốn xoay quanh những áng thơ theo hai thể loại tự sự và trữ tình, thông qua những đặc trưng nghệ thuật biểu đạt sau :

Thứ nhất, Mặc Giang rất tài trong nghệ thuật khái quát cuộc sống điển hình. Có thể thấy rõ người thơ Mặc Giang khá thành công trong việc chọn lựa và khái quát những nhân vật ý nghĩa điển hình; biết thông qua tình tiết cá biệt để phản ánh, gợi mở cái thường tình, hay chính nét chung của cuộc sống.

Mẹ quê khóc mãi đêm dài

Da mồi tóc bạc, hôm mai bơ phờ

Kia trông em bé thơ ngây

Xuân xanh đốt cháy trông chờ chi đây

Kìa trông thiếu phụ vai gầy

Phấn son nhoà nhạt, niềm tây lạnh lùng

(tiếng lòng nức nở quê hương)

Qua tình tiết cá biệt người mẹ quê, em bé vùi tuổi thơ trong cảnh thương tâm thất vọng, tuổi xuân đã bị gậm nhấm bởi vết buồn thương theo tà tháng năm, người thiếu phụ mòn mỏi nhớ nhung niềm vui đoàn viên hay tái hợp, thi nhân đã vẽ ra toàn cảnh niềm đau của quê hương.

Tiếp theo những dòng thơ hiện thực, người thơ Mặc Giang đã miêu tả bằng lối kể chuyện:

Có những em bé,

Không bao giờ được ngậm cục kẹo, cắn cà rem

Chỉ đứng nhìn rồi lấm lét phát thèm

Nuốt nước bọt rồi quay đi chỗ khác

Thân xương xẩu bọc làn da tái mét

Mũi thò lò thụt thịt có tội không

… Vọc đất bụi bay, ruồi muỗi bu đầy…

(Những em bé cơ cùng)

Đặc trưng hình ảnh này nói lên sự thật về cuộc sống của những em bé cơ cùng trên mọi nẻo miền quê hương đất nước. Hễ nghèo khó khốn cùng, đau thương vùi dập, thì trẻ thơ trên quê nghèo khốn khó phải trải qua những thương tâm xót xa như vậy. Bên cạnh đó, người thơ Mặc Giang còn khái quát một cách tập trung cao độ gia cảnh người nghèo:

Mái tranh chừa lỗ ngó ông trời

Vách lá chừa khe đón gió chơi

Cơm cháy phơi khô dành nấu cháo

Nhà không đóng cửa chẳng ai dời

Tháng năm lui tới không ai hỏi

Thấp thỏm lân la chẳng ai mời

Là thực trạng chung những mảnh đời nghèo khó. Qua cái cá biệt, dưới ngòi bút điêu luyện, thiện nghệ, bút lực vô song, thi nhân Mặc Giang giúp chúng ta thấy cái chung của những phận nghèo. Đặc trưng những hình ảnh này nói hộ rằng, đã từ lâu lắm rồi, mảnh đất “quê hương chất chồng bao thương tích, vết cũ chưa khô máu lại bồi”. Vâng, vết thương tích là sự nối dài diễn tiến của những lằn sẹo vết thương trước, nhưng cũng chính nó lại là dòng sinh mệnh nghiệt ngã, tạo thành móc nối cho những vết thương tiếp theo. Chúng đang nối đuôi nhau đi mãi về hoang sơ, tiêu điều, buốt giá…

Bằng nghệ thuật thông qua cái một để biểu thị cái nhiều, cái riêng để lột tả cái chung, miêu tả một vùng miền để rõ tất cả miền đất khác trên quê hương Việt Nam, người thơ Mặc Giang cho thấy, đằng sau giá trị nghệ thuật này chính là nỗi lòng, là tâm tình vùi chôn giữa chiếc bóng thời gian của người cùng khổ. Cũng chính sau giá trị nghệ thuật kể chuyện tự sự, là sự âm thầm của lời kêu gọi lương tri, trách nhiệm của giữa mỗi con người, giữa các giai tầng xã hội.

Thứ hai, là Mặc Giang giỏi gởi chủ quan nơi khách quan. Cũng chính là đem ý thức chủ quan, tình cảm tư tưởng riêng mình dung hóa trong những miêu tả cụ thể sự vật khách quan, mà không nói ra rõ ràng lộ liễu, như con trâu thì nói con trâu, buồn nhức nhối tâm can thì cứ nói đau lòng xót dạ. Đây là một trong những đặc điểm lớn và rất điển hình trong thơ tự sự của Mặc Giang, cũng là một trong những bản lĩnh của thi nhân. Bởi Mặc Giang đã khéo khắc chế trạng huống cảm xúc, xúc động. Đó là gì? là Gợi lòng con quốc, quốc kêu sương. Con quốc với tiếng kêu buồn khản tiếng, hình ảnh nước sông nguồn ngọn lá cây, đá … đều là những hình ảnh nói hộ nỗi lòng thống thiết đau buồn của thi nhân. Thi nhân hẳn buồn thương nhức nhối trước bao biến thiên lỡ bồi bãi biển nương dâu đan chéo trên quê hương, trước bao biến trạng đổi thay bấp bênh nghịch chiều vận động phát triển của cuộc đấu trí tồn sinh. Đồng thời cũng đã âm thầm gởi gắm niềm thiết tha mong ước, đợi chờ trong hi vọng le lói.

Cũng chính nhờ Mặc Giang đem cảm thọ chủ quanbình luận của mình dung hóa trong miêu tả những sự vật khách quan, nên khiến bản thân sự vật trở nên hấp dẫn cuốn lôi người đọc, hay chính bản thân chúng trực tiếp cảm nhiễm đôc giả. Để rồi đâu đó là lời thống thiết của hồn thơ chắp cánh bay đi ngàn phương, nấc lên nốt nhạc buồn khi dấu chân hành trình vô định trở thành dấu hài lưu lạc giữa phương trời viễn xứ:

Một đi cửa đóng then cài

Một đi lối cũ dấu hài dặm băng

Vi vu thông gọi lời ngàn

Nao nao nước chảy miên man mịt mờ

Với thủ pháp nghệ thuật này, ý thơ đã chuyển tải được ý nghĩa bước chân và tâm hồn của người con cùng tử. Một chuyến ra đi nào đâu phải để rong rêu phủ kín thềm hoang, ra đi là đi để trở về quê xưa, nơi có tiếng hát ầu ơ của mẹ, tiếng vọng buồn của cha. Gót chân người con cùng tử giờ thoạt nhìn như “lang thang làm khách phong trần mãi, ngày vẫn xa quê vạn dặm trường”. Thế nhưng, hẳn sự ra đi này xa rời cách biệt với ý niệm ra đi vừa nêu của Trần Thái Tông. Bởi ra đi bây chừ là cuộc ra đi quyết định tồn sinh định hướng cho mảnh đất tâm, là bước chân gõ lên đường đơì những dấu hài vọng thiên thu. Ngày đoàn viên đôi khi và cũng có thể chỉ là “đánh dấu hỏi gởi phương trời vô định”.

Tâm tình thi nhân Mặc Giang ẩn náu gởi gắm kí thác qua hình ảnh “bụi tre nghiêng bóng sau hè, bờ sông mòn lối con đê”, hay “rừng khuya thức giấc mấy canh trường, gội bóng trăng tàn những vấn vương”. Hình ảnh cảnh vật gợi tả ở đây cũng chính là tâm hồn nặng trĩu tình quê, thân thiết vò võ thổn thức tận đáy hồn, vô chung…, mà bởi lý do thầm kín riêng tư nào đó khiến mộng ước cứ mãi như trò bắt bóng, càng nắm bắt càng xa xăm.

Việc gởi tình cảm chủ quan nơi sự vật khách quan như thế của Mặc Giang, lắm lúc khiến chúng ta không khỏi âm thầm quặn thắt xót xa. Tình cảm chủ quan là vậy đó, là mượn nhờ cảnh vật nói hộ sự mong mỏi đợi chờ nhưng lại sẵn sàng chối từ cuộc đoàn viên như là thái độ “đưa không nhận, đẩy không cho, không thêm không bớt”. Mà mâu thuẫn ở chỗ là, tháng ngày chỉ trở thành nơi chôn sâu chìm lắng tâm tình người ly hương. Để từ đó, sự dâng tràn thâm thiết của tâm hồn được gởi gắm qua hình ảnh buồn tênh “….. nhìn trông con én liêng từng không, vỗ cánh buồn bay dưới bụi hồng, mặt nước chân mây lồng lộng quá, về đâu con én giữa mênh mông”. Giữa từng không dịu vợi, giữa mây trời vần vũ, cánh én đơn côi biết về đâu đây. Én bay khắp phương trời vô định, góp nhặt trong hương nước mây ngàn dấu ấn của dòng sống, cũng chính là sự tom góp không mệt mỏi những hoá thân, những nỗi niềm xúc cảm tình tự của Mặc Giang. Cuối cùng, con én vốn không là chứng tích cuả mùa xuân ấy mãi hiện hữu, xuất nhập, tới lui… lang bạt khắp nơi, rồi như truyền đi khắp nơi tiếng rì rào của sóng nước. Làn sóng giao thoa, bươn dài mãi mãi, sinh thành tồn tại trong từng sợi tơ lông của cánh én vút từng mây, lan đi và đi mãi đó đây…. Để làm gì nào? để mang hình sơn khê, để ngao du cho hết cõi đời, để gom góp cái tàn dư rong rêu của cuộc sống, và để hoá mình vào tự thể quang minh. Cuối cùng, khiến tự thể quang minh trở thành sức bật cho thi ca chắp cánh vút đi, lao thẳng giữa thế giới Thơ, nghệ thuật và Đạo. Nên “về đâu con én giữa mênh mông” là câu hỏi nhưng cũng là trả lời. Nơi đi về ấy là “phương ngoài phương, cõi ngoài cõi”, tìm không thấy, nhưng không đâu không hiện.

Một loạt hình ảnh thanh âm thể hiện tình cảm, cảm nghĩ nữa là :

Quốc kêu sương não nuột tiếc đêm dài

Ếch nhái cũng tàn hơi, tiếng một tiếng hai

Hổ sói chồn beo cũng ồ ề mệt ngủ”

hoặc :

Hùm thiêng còn ái ngại thét tiếng gầm vang,

Chim muông vỡ tổ vụt cánh bàng hoàng

Chiều rủ bóng rừng già ru cỏ dại

Bờ lau lách ao tù reo ếch nhái

Đồng ruộng hoang, đầm lạch gọi ểnh ương

Tiếng thạch sùng chắt lưỡi, tiếc đêm trường

Chúng đều là mượn cảnh tả tình, xúc cảm xót thương trước thực trạng quê hương khi mà “nhiễu điều…” héo hắt, đùa bỡn; khi chỉ còn trơ lại sỏi đá của những hành trình “độc đạo”, chỉ có con đường mở ra lộ trình đi về ngõ tắt, bóng tối thâm u. Tiến thêm bước nữa, thơ Mặc Giang là vậy đó, nói cái này, đã bao hàm cái kia trên cùng một hệ tương sinh. Gì là cái kia? chính là Mặc Giang kí thác vùi chôn nỗi buồn tê dại, mà hoạt dụng của ngôn từ cũng phải bất lực, phải ngậm tăm bí lối, cho dù chữ nghĩa lấp đầy trăng sao, nghẽn lối càn khôn. Cái đau buồn vô cùng này cũng là những tan vỡ bàng hoàng, biến thiên theo những vi tế nhất của cảm xúc, của tác ý; nhưng không thể dừng lại để giúp Mặc Giang ngủ một giấc dài, ru giấc mộng đời với vui thú hải hồ. Thế đó, bước tiếp theo là một tất yếu, là tác giả phải cảm thọ, rồi phải tưởng và tư. Trong thơ Mặc Giang, những giá trị không thể đong lường bằng ngôn từ này mang đến cho người đọc sự cảm nhận, choáng ngợp mến phục, chính là hảo cảm đối với thi phẩm. Để từ đó mới có thể cùng nhau lắng nghe tiếng kêu buồn tê dại, lạnh buốt cả cuộc hành trình tràn đầy thơ, đó là “tiếng kêu con quốc những đêm đông, tuế nguyệt phong sương vẫn lạnh lùng, năm tháng bọt bèo trêu sóng nước…”. Ôi ! đêm đông, tuế nguyệt, phong sương vẫn còn đó, con quốc vẫn còn đây, kêu…, gào …, nỉ non… vô tận…

Thứ ba, là cá tính hóa đối với việc vận dụng đối thoại và ngữ ngôn nhân vật; nhằm phản ánh kinh nghiệm, tâm lý cá nhân, miêu tả nhân vật một cách sinh động. Mặc Giang hình như cũng hấp thu có chọn lọc kinh nghiệm sáng tác của những thi nhân tiền bối, đã vận dụng đối thoại hoặc tiếng nói một mình của nhân vật, và rất thành công trong thể hiện cá tính hóa của ngôn ngữ nhân vật. Trong cuộc sống, không thể có những lời nói hoàn toàn giống nhau, mà Mặc Giang phát hiện được những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật, giúp đọc giả hình dung được hoàn cảnh, bản chất tính cách nhân vật.

Trong thơ tự sự của Mặc Giang, loại này xuất hiện khá nhiều. Trong Tôi là người chinh nhân, viết: “… từ biệt mẹ già từ biệt em thơ….. chỉ còn một con đường chọn lựa, đem tấm thân ngang dọc mọi chiến trường, đem màu đào nhuộm thắm khắp quê hương”. Vì khẳng nhận: “tình sống chết là tình yêu lính chiến”, nên khi nào chinh nhân cũng cảm nghe “một bước hành quân, gợi niềm nhung nhớ…” Ngay cả niềm thương chôn kín trong gót giày, tuôn ta trên đầu ngọn súng mờ khói lửa, là chỗ sâu kín tế nhị khó thấy, ấy vậy mà vẫn được Mặc Giang lột tả thành một thứ ngôn ngữ riêng, thổn thức riêng của người trong cuộc. Cũng như trong trong Tôi là người thanh nữ thì tả “ lòng ôm chặt những những nỗi niềm riêng lẻ, … gánh bơ phờ đã nặng trĩu hai vai, tôi vẫn vui không tiếng thở dài…”. Là lời kể thân thiết của người thanh nữ về thân phậntrách nhiệm của họ, phản ánh diện mạo tinh thần khá nổi bật, mà đọc lên, cho chúng ta luôn có cảm giác như thấy như nghe được cảm xúc trong thẳm sâu nỗi lòng của họ. Hoặc viết:“tôi là một người già, tháng ngày ngồi ngóng co ro, ra vô ngán ngẫm dày vò… đứng đi từng bước lò mò…”. Đây chính là ngôn ngữ có thể nói thành lời, nhưng cũng có thể không nói ra của người già. Nhờ vào nghệ thuật cá tính hóa ngôn ngữ này, Mặc Giang đã tỏ bày sự cảm thông chia sẻ nỗi cô đơn trống trải của người già. Rồi trong trong các bài như Em là người khuyết tật, Tôi là một người câm, Tôi là một người điếc, Tôi là người dân quê đồn điền, Thăm người mua bán ve chai, Khổ nghèo ôm thân phận, Thăm người lao động, Tôi người tài xế xe đò, Tôi người đạp xích lô, Tôi người cạo mủ cao su…, đều là các bài thơ như mở rộng mức thân thiết cảm, như nói hộ tiếng lòng cho bạn tri âm. Chẳng hạn về cảnh đói nghèo, thì tả: “tháng năm dài đờ đẫn thở hết ra, đi đây đó nhìn cuộc sống của người ta, về vừa tời xó nhà trông phát quải… khi thất mùa phải lo chạy cân đong, khi bịnh hoạn nằm lì không thang thuốc…. Chuyện nọ kia càng khốn khổ thấy bà, nên lủi thủi xó nhà ôm thân phận”. Chỉ tượng trưng đôi câu vây thôi, đã làm nổi bật tính cách nhân vật qua những ngôn từ rất riêng của bạn nghèo. Loại này hầu như bàng bạc khắp trong các bài thơ tự sự của Mặc Giang.

Nói chung, qua những thi phẩm tự sự của Mặc Giang, ta thấy lời nói của nhân vật thường xuất hiện nhiều hơn ngôn ngữ kể chuyện của tác giả, nên càng có khả năng thể hiện sự sinh động và khiêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của từng thân phận, như viết : “Tôi là một người già, nhiều khi đi đây đi đấy, thập thò mà ngóng mà trông, thấp tha thấp thỏm trong lòng, mỏi mòn cháu con mới tới, chưa kip đi đã nghe hối, chưa kịp bước gọi nhanh lên”…. Đọc lên, ta nghe như một ông bà già đang thụt thịt, vừa quẹt nước mũi, vừa lau nước mắt tâm sự với chúng ta, chứ không mang lại cho chúng ta cảm giác là đang đọc thơ với lối tường thuật hay kể chuyện nào cả.

Qua đó cho ta thấy, Mặc Giang đã hiểu rõ, làm sao có thể có những người nói như nhau, vì vậy cần phải phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện rõ nét riêng biệt nổi bật trong thi phẩm. Trong các bài thơ hiện thực, việc cá tính hóa nhân vật trong bao mảnh đời bất hạnh, được Mặc Giang đặc biệt quan tâmthể hiện nhiều cách khác nhau, có thể sử dụng môt số ngôn từ địa phương, như: “mệt thấy bà”, “buồn thúi ruột”, “bên nớ, bê ni” , “không hè”, “nẫu” là tôi, “tâu tư bòn”, “phát quải” là mệt mỏi, “khú đế như miêu nó vẫn meo”, “mệt ui cha!”, “khỉ mốc”, “cóc lác”, “mà nị”, “rùm beng”, “ngươita nói chi như rứa”, “tôi nói chi như ri”… Nhưng dù sử dụng cách nào, ngôn ngữ nhân vật đều phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự thống nhất giữa cá thể và khái quát hóa; đồng thời rất phù hợp với từng hoàn cảnhtính cách nhân vật.

Thứ tư là chọn dùng ngôn ngữ thông tục đời thường, hình ảnh dân dã thân quen. Đây là một trong những nét nổi bật trong thi Mặc Giang. Trong những bài thơ xoay quanh tình cảm, Mặc Giang dùng rất nhiều văn từ thông tục, rất đời thường, rất dung dị, bình phàm dễ hiểu, nhưng trong thơ tự sự thì càng phong phú hơn. Do vì thơ tự sự phần nhiều là viết về cuộc sống của con người, nhờ chọn dùng một vài ngôn ngữ thông tục, nên làm nó tự tăng thêm tính chân thậtthân thiết cảm trong thơ ca:

Có tre mấy luỹ yên lành

Có chim ca hát trên cành líu lo

con đường dất quanh co

Có người đưa đẩy con đò lại qua...

Có đầm sen nở sum suê

Dân làng xin hái đem về cúng dâng

 …

Có ve réo rắt trưa hè,

Có cây phượng vĩ chở che oi nồng

Chùa tôi có kiểng có bông….

Có hàng ghế đá rêu phong

Có hòn non bộ nằm trong sân chùa.

Đây đều là những hình ảnh, những ngôn từ rất đỗi dung dị thân quen. Hình ảnh này là hơi thở, câu nói tiếng cười nơi chôn nhau cắt rốn cuả người dân làng; là nét đẹp thôn trang, rộn rã nhưng yên bình, dân dã nhưng cao sang và thanh tao, rất Việt Nam… Hình ảnh ngôi chùa cổ kính, mang màu sắc cổ kính, hiền hoà tao nhã với thú mây trời gió núi, đầy ắp tình dân quê này càng làm cho người đọc cái cảm giác thân gần hơn, ấm cúng hơn, để lời ca :“chùa tôi tôi nhớ tôi thương, quê tôi tôi nhớ vấn vương muôn đời” trở thành tiếng nói thầm kín của người dân quê Việt Nam .

Hoặc viết “già cả mấy đồng cắt ca cắt củm…..già tôi khổ quá vậy hè !” hoặc trong mấy bài như Hỏa hoạn điêu tàn, Bảo lụt thảm thương, những ngôn từ thông tục trong bài đều hiển bày bản sắc của sự kiện, đều là những hình ảnh sinh động gợi hình gợi tả nhất, khiến người đọc như chứng kiến hiện trường cái cảnh hoạn nạn, như đang nghe nỗi đau đớn, tiếng thở dài não nuột của nạn nhân. Rồi cũng dùng ngôn ngữ giản dị khi tả cảnh phòng khám: “…. bịnh bó tay thì há hốc, im re, giàu sang nghèo khó cùng kéo một bè, thượng vàng hạ cám cùng đi một lối”; hoặc “khoẻ khoắn gì đâu, mệt thấy bà”… đều là những câu với ngôn từ rất quê, rất mộc mạc, càng làm tăng tính thân thiết cảm của ý thơ.

Thứ năm là miêu tả tỉ mỉ. Mặc giang giỏi nắm bắt một cách phong phú nơi sức biểu hiện, có khả năng hiển bày một cách chi tiết tỉ mỉ bản chất sự vật hoặc diện mạo tinh thần của nhân vật. Như trong Cuộc sống người cùi, Mặc Giang tả: “lết lê mòn mỏi một vùng, lết ra ngao ngán lạnh lùng lết vô, lết mòn vỏ lớp làm mo, dày thêm lớp nữa lết cho hết đời…. lết lê nước mắt hai hàng, lết reo nhân thế động lòng ban cho”. Sự tỉ mỉ chi li này cho chúng ta hình dung một cách sống động cảnh ngộ của người bệnh phong. Cái giá trị đằng sau đó nữa là hình ảnh này không những biểu hiện nỗi thống khổ của người bệnh, mà còn nói rõ, họ là những thân phận đáng được quan tâm hỗ trợ, động viên, an ủi. Đồng thời nó cũng là tình cảm chân thành chí thiết cảm thông sâu sắc, xót thương vô vàn của tác giả. Trong Tôi mang thân phận người mù, thì “bóng hình nào có trong đời, dung nhan nào biết khôi ngô đê hèn, rà qua soát lại làm quen, nhấp nhô, thò thõm, hom hem nhô lồi”. Chi tiết và động tác này khắc hoạ được nội tâm sống trong âm thầm đau khổ buồn tủi đến tận cùng của người mù. Chưa dừng lại trong cảnh mù đâu, Mặc Giang còn dẫn chúng ta viếng cảnh Từ cõi chết em lần mò sống lại :

Trố mắt, sững sờ, ngậm câm, kinh ngạc

Máu ngừng trôi, tim ngừng đập, khóc, than

… Khóc nữa đi em cho cạn thương đau

Cõi sống còn đâu, cát đá đổi màu….

… Khung trời cong cong một bọc

Đất mờ lãng vãng bụi bay

Ở đây không những miêu tả chi li, đường nét sinh động của thảm cảnh động đất, mà còn lột tả được tâm tình chồng chéo ngổn ngang, khổ đau chất ngất của nạn nhân. “Khung trời cong cong một bọc” là khung trời tím xám ly biệt tang thương, ao ước chờ đợi cuộc sống mới. Sống trong cảnh màn trời chiếu đất, không thân thích không cơ nghiệp, là sống giữa uất nghẹn … não nề…. Nó như kéo dài mãi trong cuộc đời của những số phận hẩm hiu. Đây hẳn là sự miêu tả độc đáo, chí tình chí thiết của tác giả.

Còn trong Hạn hán bạo tàn, thì tả: “trâu bò há mồm dưới rãnh dưới mương, súc vật đẫn đờ giữa dòng giữa suối, đàn cò trắng cắm đầu giữ đầm lầy nhả khói”; trong Thăm người mua bán ve chai, tác giả viết :“bán buôn đủ mọi thứ trên đời, xoong chảo nồi niêu, chén, bát, môi, nhôm bạc thau chì đồng kẽm sắt, và thêm lông vịt nữa”. Đặc điểm miêu tả tỉ mỉ như vậy trong thơ tự sự của Mặc Giang là nhiều lắm. Tùy vào hoàn cảnh và nội dung sự việc khác nhau mà tác giả có những cách miêu tả tỉ mỉ chi li khác nhau, nhưng cái chung nhất là thể hiện sức quan sát tinh tế, toàn diện. Qua đó, thể hiện tấm lòng rộng mở, nhiệt huyết, ánh mắt luôn vò võ ….xa xăm…. đầy thương cảm.

Trong thơ tự sự, Mặc Giang gởi tình nơi sự vật; trong thơ trữ tình, thì gởi tình nơi cảnh, dung cảnh vào tình, khiến tình và cảnh giao dung. Đây cũng có hai tình huống, một là tình và cảnh đồng thời xuất hiện, như “bên bờ ao cá ngậm tăm không đớp, súng chen bèo buồn ủ dột lặng thinh”, “ngày vụt tắt nghe tiếng gãy cánh, đêm chìm sâu nghe tiếng dế nỉ non” “bóng đom đóm lập loè trong đêm tối, hắt hiu thành lời, ghi nét đau thương”. Một tình huống khác là chỉ có cảnh mà không thấy tình, như: “trời chiều kéo hoàng hôn, chim bay về tổ ấm, cho gừng cay muối mặn, cho hoa trái đơm bông”, đã bao hàm tâm tình thương xót.

Qua đó cũng cho thấy, trong thơ tự sự, Mặc Giang thường tỏ ra hết sứcý thức về việc tránh phát nghị luận. Còn trong thơ trữ tình, cụ thể là thơ nói về cảnh đất nước con người, lại thỉnh thoảng phát biểu nghị luận, đưa ra cái nhìn đúng đắnphê bình nhận định đối với sự việc, như… “lưỡng hổ tranh hùng nhất sinh nhất tử, đa cáo tranh phong, đại náo đại thương … đầy biển dâu cho nát bã nhục vinh, đọa thương hải cho tang điền ứ đọng” ….

Qua đó cho thấy, là một thi nhân viết tương đối nhiều về hiện thực, thơ tình cảm của mặc Giang cũng có phong cách của riêng của cá nhân mình. Trong thơ tự sự, Mặc Giang thường thường khắc họa những khổ đau thầm kín, nỗi khổ đời thường của nhân vật, những mâu thuẫn của thế giới nội tâm. Tất cả những mức độ khổ đau và tâm thái tiếp nhận khổ đau, đều được tác giả tiến hành mỗ xẻ một cách chi tiết, hoàn chỉnh; và tác giả cũng đã biến tình và cảnh dung hợp thống nhất hoàn chỉnh trong một không gian thời gian nhất định. Chúng có sức rung cảm tận chiều sâu lòng người đọc.

Vậy, cái đẹp nghệ thuật trong thơ hiện thực của Mặc Giang không phải ở chỗ ngôn từ nặng ký, trau chuốt hoa mỹ, hình ảnh xa xôi mờ ảo nào, mà chính là ngay trong ngôn từ thông tục, hình ảnh đời thường; cũng là ngay khi tình và cảnh hòa làm một. Đó cũng chính là cái thường Đạo, cũng chính là triết lý hiện sinh; chúng cùng có mặt trong nhau, bổ sung hài hòa. Cái thế giới nội dung-nghệ thuật–thường Đạo như thế ấy như muốn tuôn chảy mãi giữa đời. Nhờ đó mà con người sẽ có cơ hội cảm thụ được “thi hữu tận mà ý vô cùng”; tìm thơ bắt gặp uyên nguyên của Đạo, tìm Đạo thì hấp thụ được nguyên khí của thơ. Thơ Mặc Giang chỉ là thế đó. Bát ngát và mãi mãi…. Và đây ! chân trời thi ca viễn mộng ấy đã và đang sờ sờ trước mắt ta đó. Cố nhiên, với nghệ thuật chuyên chở và nội dung như vậy, nào phải là ngẫu nhiên mà là quy luật có tính chuyển hoá “nước đến thì ao thành” - người thơ Mặc Giang đã khéo dụng tâm dụng lực gần cả mấy mươi năm nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10204)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11260)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13601)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13751)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22240)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21884)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27415)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17816)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11748)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12335)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25259)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23306)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28620)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22796)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25742)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22330)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14017)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13451)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22515)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26417)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18500)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18983)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34548)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27406)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28451)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21421)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14924)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19232)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10634)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18589)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15672)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13202)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13433)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14044)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11808)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11642)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11352)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11913)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19956)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12404)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13952)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13281)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32012)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13451)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12767)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13342)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11909)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21898)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11105)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12916)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant